Phố Thị

27/03/202220:16:00(Xem: 3462)

TâyNguyên

 

(Viết cho Banmethuot yêu dấu).

 

Em xa Phố Thị lâu rồi,
Có quên không nhỉ những nơi hẹn hò,
Khu rừng Trắc - Bá bây giờ, (1)
Mùa Thu đã gọi vàng xưa đổ về,
Cánh buồn che khuất lối đi,
Cỏ non cũng úa xuân thì chiều qua,
Lủng - Hồng phủ màu xót xa , (1)
Ái - Ân một thủa mặn mà còn đâu,
Vườn - Ương ôm đầy nét sầu,
Cây khóc tử biệt, hoa đau theo người,
Đài trang rã xuống khắp nơi,
Bầy Chim - Chích cũ đã rời rừng xưa,
Hoang sơ phủ khắp bốn mùa,
Phố phường đổi chủ, người chưa quen người !

 

Vinh - Sơn đã mất trên đời, (2)
Và tên Tỉnh - Hạt đã rời trần gian,
Hưng - Đức, Tổng - Hợp, La - San,
Đâu còn bóng dáng những nàng kiều xưa,
Bồ - Đề đã vào cõi mơ,
Hai hàng Phượng rũ, đôi bờ để tang,
Phố phường mang nét điêu tàn,

Những con đường cũ đã sang tên rồi,
Người người phiêu bạt ngàn nơi,
Em ơi phố thị của thời xa xưa,
Chỉ còn dư âm trong mơ,
Chỉ là vị đắng những giờ nhớ thương.


Em xa phố thị, xa trường,
Bao lâu rồi nhỉ - còn thương nhớ gì,
Con đường Thống - Nhất quen đi, (3)
Hay là Y - Jút mỗi khi xuân về,
Mùa Thu rụng trên hàng me,
Chơ vơ những cánh bên lề Hùng - Vương,
Phan - Chu – Trinh, Xóm - Đạo buồn,
Hàm - Nghi dốc đứng mù sương che người,
Buồn Muôn Thủa - Bụi Mù Trời,
Biển dâu đã đẩy em rời phố xưa,
Mà ta vẫn sống trong mơ,
Đường xưa phố củ bao giờ mới quên!

 

tử du

 

(1) Địa danh, những thắng cảnh của địa phương.
(2) Tên các Trường Trung Tiểu Học.
(3) Tên những con đường.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Loang loáng / chuông ngân / vong hồn những hạt bụi
Vũ Hán Những ngôi nhà cửa bị đóng đinh những cánh cổng bị bịt lại bằng những then gỗ hình chữ X người nhốt người trong đó không hề nghĩ họ sẽ sống thế nào nếu không còn thuốc nếu không còn thức ăn
Anh ở đâu ra vậy anh yêu / Hình như chúng ta từng gặp nhau
Biêng biếc làm sao chàng mây / vừa nhặt được màu xanh của ký ức
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản sông Đà. Thân sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.
tôi phải trở lại những ý tưởng lần thứ hai / khi mưa mặc áo choàng xám đi quanh lâu đài
Rừng ngưng thở / thức / chíu chít tiếng chim
Lửa ! Lửa ! Lửa ! / khắp nơi, biết chạy về đâu
Núi chiều nay đã quay về chờ đợi. Còn gì đâu những hò hẹn trong đời.
Làm sao quên / mỗi chiều / Venice lóng lánh tà dương