Mậu Thân

03/02/202300:00:00(Xem: 4353)
Mau-Than
Phan Nhật Nam tại Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Mậu Thân tại Việt Báo Gallery, 2008

 

Chúng giết người vào buổi sớm mai

Sáng Mồng Hai, ngày Tết

Chúng giết người không ghê tay,

không giấu mặt.

Những hàng xóm, phố xưa quen biết lâu dài,

chung tộc họ, tính danh, gia cảnh

Chúng giết người bởi quyết tâm định sẵn

"Đường vinh quang xây xác quân thù

Lềnh loang màu cờ thẫm máu. (1)

 

Chúng giết trẻ thơ

giữa sân trường, nơi lớp học.

Chúng giết mẹ thương khó tảo tần lưng nặng,

nuôi con thay chồng đóng đồn,

phận lính khổ Nghĩa Quân.

Chúng giết Thầy ta,

Trưởng Gà Hùng Biện (2)

Dạy kẻ thiếu niên nên Điều Thiện, tròn việc tốt mỗi ngày.

 

Chúng trói siết chặt thân

Chúng đập dập nát đầu

Bác Sĩ hiền nhân, lương y từ mẫu

Quy tội danh dạy Đại Học Y Khoa

Quốc tịch phản động Cộng Hòa Liên Bang Đức (3)

Chúng giết người dậy sôi men vọng âm sâu độc

Gọi là "thơ"...

Đêm Giao Thừa,

Bắc Bộ Phủ truyền lệnh tấn công (4)

 

Hãy đốt đuốc lên!

Hãy đốt đuốc lên!

Đào xuống huyệt nông bốn mươi năm xưa lấp vội

Tìm kiếm sọ đầu con vỡ tung lưỡi búa!

Hãy đốt đuốc lên!

Hãy đốt đuốc lên!

Vét suối, phá rừng

Vuốt xếp gọn lọn tóc em tuổi hai-mươi chôn sống

 

Sợi xanh biếc thảm thiết mọc dài

(dưới lường sâu ngàn dép lốp dậm chân nén chặt)

Vẫy vùng, bập bùng, dẫy dụa...

Đòi được thở

Đòi được sống

Em ơi!

 

Mậu Tuất năm nao giỗ ngõ Âm Hồn (5)

Mậu Thân ngày nầy linh, vong thất lạc

Đối mặt chết, bé sợ rung nín khóc

Mẹ che con hứng nhát cuốc hờn oan

Âm cắm sâu thịt người

Dội tầng tầng mạch đất

Xuyên suốt cõi âm ty

Rúng động mười cửa ngục

 

Hồn người chết oan không biết đường về (6)

Đất lưu vong nhớ đuốc chiêu hồn

"Mỗi lần hoàng hôn,

ta đốt lửa người ta tới trước" (7)

Hồn hỡi hồn..

Hồn uất hận nơi đâu!

 

Tại sao chúng giết người?

Tai sao chúng đành đoạn giết Con Người?

Em em ơi và Huế Huế ơi!

 

Phan Nhật Nam

 

Thơ viết ngày 29 tháng Ba, 2008

Đọc tại Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Mậu Thân

Với Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca

 

 

(1) Bài hát Tiến Quân của cộng sản Hà Nội

(2) Trưởng Trần Điền, Ủy Viên Trung Ương Hội Hướng Đạo Việt Nam

(3) Các Bác Sĩ Alterkoster, Discher, và Krainick người Tây Đức

(4) "Thơ Chúc Tết" của HCM đêm Giao Thừa Mậu Thân là lệnh tấn công.

(5) Ngõ Âm Hồn, Thành Nội Huế, miếu cúng vong linh

    trong biến cố Thất Thủ Kinh Đô, 1918

(6) Lời Nhã Ca kể trong bài nói chuyện về "Sự Thật Mậu Thân".

(7) Thơ Thanh Tâm Tuyền

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
đêm bước qua khu phố tạp nhạp / quày quả sau cơn mưa bất chợt / gió lạnh từng chập vi vu...
mặt trời mặt trăng chiếu sáng nhân cảnh phì nhiêu / núi đồi bầu ngực vuông tròn / phập phồng hơi thở trần gian / suối sông mãi là bạt ngàn / một đời phiêu lãng / trôi theo sương khói...
Ta loài cỏ chưa một lần bén rễ / Trên đất này ta là khói bơ vơ / Phải đêm xưống hay bình minh ló dạng / Mặt trời hồng chưa một bước đi xa...
Có ai thật sự thấy thi sĩ? | Có ai thật sự hiểu thơ? | Thơ vẽ hoa Hướng Nguyệt | tròn như trăng | cánh trong như gương | nhìn thấu thế giới nhụy như viễn vọng kính nhìn vào không gian.
Những khúc thơ ngắn của nhà văn Trần Hoàng Vy. Cảm xúc cô đọng, bất ngờ...
phân thân ̶ ̶ ̶ bạn nói phân thân / nhẹ nhàng tách rời khỏi xác / lênh đênh trên dòng chảy vô hạn / bềnh bồng trong bầu sinh quyển phi trọng lượng / như lạc vào một bức tranh chagall...
Trong thơ ta có gió / Để tháng ngày ngao du / Trong thơ ta có núi / Đứng bên bờ ưu tư...
Gerald McCarthy vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ năm 17 tuổi, phục vụ tại Việt Nam trong hai năm 1966-1967, trong Tiểu Đoàn 1 Công Binh Chiến Đấu Hoa Kỳ (1st Combat Engineer Battalion) tại Chu Lai và rồi tại Đà Nẵng. Sau một nhiệm kỳ trong quân ngũ, McCarthy đào ngũ, bị bắt vào một nhà tù dân sự rồi chuyển vào quân lao. Những bài thơ đầu tiên của ông gom lại ấn hành trong thi tập War Story, ghi lại các suy nghĩ với kinh nghiệm tại Việt Nam. Sau đó, ông tham gia các hoạt động phản chiến và in nhiều thi tập khác. Nhà thơ D.F. Brown sinh năm 1948 tại Springfield, Missouri. Ông phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 tới 1977, trong đó từng giữ nhiệm vụ lính cứu thương trong tiểu đoàn Bravo, 1/14th Infantry tại chiến trường Việt Nam các năm 1969–70. Năm 1984, Brown in tập thơ đầu tay, nhan đề Returning Fire, trong đó, bài thơ ngắn nhất có nhan đề ghi bằng tiếng Pháp “L’Eclatante Victoire de Khe Sanh” (Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh).
Mariupol | không phải Sài gòn | mà trái tim tôi nặng trĩu | có bất công không | tôi và trái tim | đã chồng bốn mươi bảy năm của nỗi đau trường kỳ lên vai Mariupol
nói lời giã biệt với một ly cà phê không đường | có cần gì mật ngọt | một ngày nào hồi tưởng | mỉm cười ta đã thử mọi hương vị của tình yêu | mối tình không đi tới đâu, dấu chấm than tất nhiên là những hớp cà phê đậm