Chuyển động

15/08/202411:18:00(Xem: 1718)
Leonora
Tranh: Leonora CARRINGTON
"Lord Candlestick's horses" (1938)

Nếu em là con ngựa màu hổ phách
Anh là con đường máu
Nếu em là bông tuyết đầu mùa
Anh là người thắp sáng lửa bình minh
Nếu em là tòa tháp của đêm
Anh là mũi giáo bùng cháy trong tâm trí
Nếu em là thủy triều buổi sáng
Anh là tiếng kêu của con chim mới nở
Nếu em là giỏ cam
Anh là con dao mặt trời
Nếu em là bàn thờ đá
Anh là bàn tay phạm thánh
Nếu em là trái đất nằm yên
Anh là cây sậy xanh
Nếu em là bước nhảy của gió
Anh là ngọn lửa bị chôn vùi
Nếu em là miệng nước
Anh là miệng rêu
Nếu em là rừng mây
Anh là chiếc rìu xẻ chặt
Nếu em là thành phố bị ô uế
Anh là cơn mưa thánh hiến
Nếu em là ngọn núi màu vàng
Anh là cánh tay đỏ địa y
Nếu em là mặt trời mọc
Anh là con đường máu


Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Tây Ban Nha bài thơ "Movimiento” của Octavio Paz trong tập Salamandra (1958-1961), có tham khảo bản dịch tiếng Anh “Motion" của Eliot Weinberger.

***

Bài thơ "Movimiento” (Chuyển động) của Octavio Paz là sự nghiên cứu các mặt đối lập, tạo nên cảm giác chuyển động, đồng thời cũng truyền tải những phức tạp của cuộc sống. Bài thơ đậm chất trữ tình nhưng cũng chói tai, là một chuỗi các dòng dường như đối lập trực tiếp với nhau. Mở đầu là: "Nếu em là con ngựa màu hổ phách / Anh là con đường máu". Dòng đầu tiên gợi đến thế giới tự nhiên và sự thanh bình, trong khi dòng thứ hai gợi ý đến bạo lực và đấu tranh, và đây là hai thái cực đối lập nhau, nhưng chúng mô tả sự phức tạp của cuộc sống, có thể yên tĩnh và thanh bình trong một phút, nhưng lại bạo lực và đầy xung đột vào phút tiếp theo. Chủ đề này tiếp tục xuyên suốt bài thơ, truyền tải sự chuyển động với những dòng đối lập. Các dòng thơ hỗ trợ lẫn nhau, nhưng chúng mang lại một chuyển động trôi chảy đưa bài thơ từ dòng đầu tiên đến dòng cuối cùng, và kết thúc bài thơ trở lại nơi nó bắt đầu, tạo ra ảo giác về chuyển động với một vòng tròn đầy đủ khép lại ở cuối.

Nhiều hình ảnh mang tính bạo lực và hơi phản cảm. Chẳng hạn: “Nếu em là rừng mây / Anh là chiếc rìu xẻ chặt”. Mỗi hình ảnh này hoàn toàn có thể đảo ngược, do đó các dòng gần như là hình ảnh phản chiếu của chính chúng, di chuyển theo hướng lên hoặc xuống theo chiều dài của bài thơ. Octavio Paz dường như muốn nói rằng con người có thể là hình ảnh phản chiếu của nhau, với mặt "tốt" và mặt "xấu", giống như bài thơ tạo ra sự đối lập và xem xét sự phức tạp của cuộc sống. Mỗi người luôn có hai mặt, mỗi câu chuyện đều có hai mặt, cuộc đời có hai mặt, một mặt bình yên và bên kia đầy xung đột. Bài thơ thể hiện tính hai mặt tồn tại trong mọi sự vật và cho thấy rằng chúng có thể hòa trộn để tạo ra thứ gì đó phức tạp và hứng khởi cùng một lúc. Điều này tạo ra một cái nhìn sâu sắc khiến bài thơ trở nên khác biệt: sự phức tạp và mối quan hệ của các đường nét cũng như cách thức tác giả đưa bài thơ về phía trước.

Octavio Paz (1914-1998) là một nhà thơ, nhà văn và nhà ngoại giao người Mexico, được công nhận là một trong những nhà văn Mỹ Latinh lớn của thế kỷ 20. Ông nhận giải Nobel Văn học năm 1990.

Gia đình của Octavio Paz bị ảnh hưởng bởi Nội chiến Mexico, và ông lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn. Ông được học tại một trường Công giáo La Mã và tại Đại học Mexico. Octavio Paz xuất bản tập thơ đầu tay của mình, Luna silvestre vào năm 1933, ở tuổi 19. Năm 1937, nhà thơ trẻ đến thăm Tây Ban Nha. Suy nghĩ của ông về trải nghiệm đó, tập Bajo tu clara sombra y otros poemas được xuất bản vào năm 1937, cho thấy ông là một nhà văn thực sự có triển vọng. Trước khi trở về nhà, Paz đã đến thăm Paris, nơi Chủ nghĩa Siêu thực và những người theo nó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến ông.
Trở lại Mexico, Paz thành lập và biên tập một số tập san phê bình văn học quan trọng, bao gồm Taller từ năm 1938 đến năm 1941 và El hijo pródigo, do ông đồng sáng lập vào năm 1943. Các ấn phẩm thơ lớn của ông bao gồm No pasaran! (1937), Libertad bajo palabra (1949); Águila o sol? (1951), và Piedra de sol (1957). Cùng thời gian đó, Paz đã ra mắt các tập tiểu luận và phê bình văn xuôi, bao gồm El laberinto de la soledad (1950), một bài tiểu luận có ảnh hưởng trong đó ông phân tích tính cách, lịch sử và văn hóa của Mexico; El arco y la lira (1956) và Las peras del olmo (1957) là những nghiên cứu về thơ Mỹ-Tây Ban Nha đương đại.

Paz gia nhập cơ quan ngoại giao của Mexico vào năm 1945, sau khi sống hai năm ở San Francisco và New York , đồng thời đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó có một lần là đại sứ Mexico tại Ấn Độ từ năm 1962 đến năm 1968. Vào năm sau, ông từ chức để phản đối việc Mexico đối xử tàn bạo với những sinh viên cấp tiến. Từ năm 1971 đến năm 1976 Paz biên tập Plural, và năm 1976, ông thành lập Vuelta, tiếp tục được xuất bản cho đến khi ông qua đời vào năm 1998; cả hai đều là những tập san phê bình về văn học và chính trị.

Thơ của Octavio Paz sau năm 1962 gồm có Blanco (1967), chịu ảnh hưởng từ thơ của Stéphane Mallarmé và lý thuyết về âm nhạc của John Cage ; Ladera este (1971), chứa đựng sự hiểu biết sâu sắc của Paz về thần thoại Đông Ấn; Hijos del aire (1979), các chuỗi sonnet do Paz và nhà thơ Charles Tomlinson tạo ra dựa trên lời thoại của nhau; và Árbol adentro (1987), trong đó nhiều bài thơ dựa trên tác phẩm của các nghệ sĩ như Marcel Duchamp và Robert Rauschenberg . Một tuyển tập bằng tiếng Anh, The Collected Poems of Octavio Paz, 1957–1987, được xuất bản năm 1987.
Các tác phẩm văn xuôi sau này của Paz, một số nguyên bản bằng tiếng Anh, bao gồm Conjunciones y disunciones (1969), một cuộc thảo luận về thái độ văn hóa của thế giới; El mono gramático (1974), một bài thiền về ngôn ngữ; và Tiempo nublado (1983), một nghiên cứu về chính trị quốc tế nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Châu Mỹ Latinh.

Paz lần lượt chịu ảnh hưởng chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Siêu thực, chủ nghĩa Hiện sinh, Phật giáo và Ấn Độ giáo. Trong thơ ở tuổi trưởng thành, ông đã sử dụng dòng hình ảnh siêu thực phong phú để giải quyết các câu hỏi siêu hình. Paz đã khám phá các lĩnh vực văn hóa hiện đại và chủ đề nổi bật nhất của ông là khả năng con người vượt qua nỗi cô đơn hiện sinh thông qua tình yêu và khả năng sáng tạo nghệ thuật.

Ngoài giải Nobel, Paz còn nhận được nhiều giải thưởng khác, trong đó có Cervantes - giải thưởng danh giá nhất dành cho tiếng Tây Ban Nha. Toàn tập tác phẩm của Octavio Paz, Obras completas de Octavio Paz, gồm 15 tập được xuất bản từ năm 1994 đến năm 2004. The Poems of Octavio Paz (2012) là một tuyển tập các bài thơ được dịch sang tiếng Anh trong suốt sự nghiệp của ông.
...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
là khi nước mắt khô đi | mọi thứ đều trở nên dư thừa | hiểu biết càng vô hiệu | những đốm loang không thể tẩy xóa
Tôi trôi tuổi ấu thơ, từ quê hương cùng khổ, rau dưa khoai sắn / Tôi trôi từ chợ quán rường, cái đình làng, ngôi trường tiểu học, áo lấm lem màu mực tím mẹ mới mua, cùng cây viết lá tre, trang giấy tự túc, vàng khè, không trông rõ chữ...
Rõ ràng, có tai không nghe, | có mắt không thấy, | có tay chỉ thòng lòng, | có chân chỉ đi lui đi tới, | duy nhất có miệng, người nói không ngừng.
tình yêu lạnh như biển | những cái giống không cùng đời | có thể là một vì sao nhỏ bé | có thể là một nét mày hung tợn | trả treo trước gi
Thơ của hai thi sĩ Quảng Tánh Trần Cầm & Thy An...
Thành phố cháy hết cây cỏ. | Những tàng dừa nhớ gió. | Những đỉnh thông khát nước. | Sao tình yêu chưa sôi sục trong em?
Thơ của ba nhà thơ: Nguyễn-hoà-Trước, Trần Hạ Vi, Trần Yên Hòa...
Kể lạ, ở “nước non mình”, bút hiệu của các nhà sáng tác qua nhiều lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, nghiên cứu phê bình, truyền hình, báo chí, diễn viên, có bút hiệu/danh, là Sơn [không kể Sơn ở đầu như Sơn Nam, Sơn Tùng, Sơn Vương…] là đông vô số kể. Thiếu Sơn, Triều Sơn, Trúc Sơn, Phạm văn Sơn, Trịnh Công Sơn, Mai Sơn, Phong Sơn, Vân Sơn, Trần văn Sơn, Linh Sơn, Trần Áng Sơn, Từ Sơn, Vinh Sơn, Tiến Sơn, Cao Sơn, Ngô văn Sơn, Lê Thái Sơn, Nguyễn Lê La Sơn, Lê Tây Sơn. Chu Sơn, Tùng Sơn, Hoài Sơn, Đào Bá Sơn…Trong đó hai ông Sơn thi sĩ là….đáng yêu nhất. Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Bắc Sơn. Đáng yêu, vì hai ông này đều có tài, đều có cái lạ trong thơ, lẫn ngất ngư, ngất ngưỡng, ngất ngây trong đời sống.
ôi màu xanh bể dâu ngút ngàn | truy lùng những lóng mây tự ải | giữa bầu trời hắc ín | rúc đầu những chú ve non | làm mồi cho lũ bọ đất
đàn bà càng già càng khô khan | đàn ông càng già càng nhiều cảm xúc | kích thích tố giảm theo thời gian nên sự dịu dàng và tóc của người nữ ngày càng bớt mượt | và anh hùng tính của người nam ngày càng trượt xuống đồi