Chuyển động

15/08/202411:18:00(Xem: 1691)
Leonora
Tranh: Leonora CARRINGTON
"Lord Candlestick's horses" (1938)

Nếu em là con ngựa màu hổ phách
Anh là con đường máu
Nếu em là bông tuyết đầu mùa
Anh là người thắp sáng lửa bình minh
Nếu em là tòa tháp của đêm
Anh là mũi giáo bùng cháy trong tâm trí
Nếu em là thủy triều buổi sáng
Anh là tiếng kêu của con chim mới nở
Nếu em là giỏ cam
Anh là con dao mặt trời
Nếu em là bàn thờ đá
Anh là bàn tay phạm thánh
Nếu em là trái đất nằm yên
Anh là cây sậy xanh
Nếu em là bước nhảy của gió
Anh là ngọn lửa bị chôn vùi
Nếu em là miệng nước
Anh là miệng rêu
Nếu em là rừng mây
Anh là chiếc rìu xẻ chặt
Nếu em là thành phố bị ô uế
Anh là cơn mưa thánh hiến
Nếu em là ngọn núi màu vàng
Anh là cánh tay đỏ địa y
Nếu em là mặt trời mọc
Anh là con đường máu


Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Tây Ban Nha bài thơ "Movimiento” của Octavio Paz trong tập Salamandra (1958-1961), có tham khảo bản dịch tiếng Anh “Motion" của Eliot Weinberger.

***

Bài thơ "Movimiento” (Chuyển động) của Octavio Paz là sự nghiên cứu các mặt đối lập, tạo nên cảm giác chuyển động, đồng thời cũng truyền tải những phức tạp của cuộc sống. Bài thơ đậm chất trữ tình nhưng cũng chói tai, là một chuỗi các dòng dường như đối lập trực tiếp với nhau. Mở đầu là: "Nếu em là con ngựa màu hổ phách / Anh là con đường máu". Dòng đầu tiên gợi đến thế giới tự nhiên và sự thanh bình, trong khi dòng thứ hai gợi ý đến bạo lực và đấu tranh, và đây là hai thái cực đối lập nhau, nhưng chúng mô tả sự phức tạp của cuộc sống, có thể yên tĩnh và thanh bình trong một phút, nhưng lại bạo lực và đầy xung đột vào phút tiếp theo. Chủ đề này tiếp tục xuyên suốt bài thơ, truyền tải sự chuyển động với những dòng đối lập. Các dòng thơ hỗ trợ lẫn nhau, nhưng chúng mang lại một chuyển động trôi chảy đưa bài thơ từ dòng đầu tiên đến dòng cuối cùng, và kết thúc bài thơ trở lại nơi nó bắt đầu, tạo ra ảo giác về chuyển động với một vòng tròn đầy đủ khép lại ở cuối.

Nhiều hình ảnh mang tính bạo lực và hơi phản cảm. Chẳng hạn: “Nếu em là rừng mây / Anh là chiếc rìu xẻ chặt”. Mỗi hình ảnh này hoàn toàn có thể đảo ngược, do đó các dòng gần như là hình ảnh phản chiếu của chính chúng, di chuyển theo hướng lên hoặc xuống theo chiều dài của bài thơ. Octavio Paz dường như muốn nói rằng con người có thể là hình ảnh phản chiếu của nhau, với mặt "tốt" và mặt "xấu", giống như bài thơ tạo ra sự đối lập và xem xét sự phức tạp của cuộc sống. Mỗi người luôn có hai mặt, mỗi câu chuyện đều có hai mặt, cuộc đời có hai mặt, một mặt bình yên và bên kia đầy xung đột. Bài thơ thể hiện tính hai mặt tồn tại trong mọi sự vật và cho thấy rằng chúng có thể hòa trộn để tạo ra thứ gì đó phức tạp và hứng khởi cùng một lúc. Điều này tạo ra một cái nhìn sâu sắc khiến bài thơ trở nên khác biệt: sự phức tạp và mối quan hệ của các đường nét cũng như cách thức tác giả đưa bài thơ về phía trước.

Octavio Paz (1914-1998) là một nhà thơ, nhà văn và nhà ngoại giao người Mexico, được công nhận là một trong những nhà văn Mỹ Latinh lớn của thế kỷ 20. Ông nhận giải Nobel Văn học năm 1990.

Gia đình của Octavio Paz bị ảnh hưởng bởi Nội chiến Mexico, và ông lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn. Ông được học tại một trường Công giáo La Mã và tại Đại học Mexico. Octavio Paz xuất bản tập thơ đầu tay của mình, Luna silvestre vào năm 1933, ở tuổi 19. Năm 1937, nhà thơ trẻ đến thăm Tây Ban Nha. Suy nghĩ của ông về trải nghiệm đó, tập Bajo tu clara sombra y otros poemas được xuất bản vào năm 1937, cho thấy ông là một nhà văn thực sự có triển vọng. Trước khi trở về nhà, Paz đã đến thăm Paris, nơi Chủ nghĩa Siêu thực và những người theo nó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến ông.
Trở lại Mexico, Paz thành lập và biên tập một số tập san phê bình văn học quan trọng, bao gồm Taller từ năm 1938 đến năm 1941 và El hijo pródigo, do ông đồng sáng lập vào năm 1943. Các ấn phẩm thơ lớn của ông bao gồm No pasaran! (1937), Libertad bajo palabra (1949); Águila o sol? (1951), và Piedra de sol (1957). Cùng thời gian đó, Paz đã ra mắt các tập tiểu luận và phê bình văn xuôi, bao gồm El laberinto de la soledad (1950), một bài tiểu luận có ảnh hưởng trong đó ông phân tích tính cách, lịch sử và văn hóa của Mexico; El arco y la lira (1956) và Las peras del olmo (1957) là những nghiên cứu về thơ Mỹ-Tây Ban Nha đương đại.

Paz gia nhập cơ quan ngoại giao của Mexico vào năm 1945, sau khi sống hai năm ở San Francisco và New York , đồng thời đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó có một lần là đại sứ Mexico tại Ấn Độ từ năm 1962 đến năm 1968. Vào năm sau, ông từ chức để phản đối việc Mexico đối xử tàn bạo với những sinh viên cấp tiến. Từ năm 1971 đến năm 1976 Paz biên tập Plural, và năm 1976, ông thành lập Vuelta, tiếp tục được xuất bản cho đến khi ông qua đời vào năm 1998; cả hai đều là những tập san phê bình về văn học và chính trị.

Thơ của Octavio Paz sau năm 1962 gồm có Blanco (1967), chịu ảnh hưởng từ thơ của Stéphane Mallarmé và lý thuyết về âm nhạc của John Cage ; Ladera este (1971), chứa đựng sự hiểu biết sâu sắc của Paz về thần thoại Đông Ấn; Hijos del aire (1979), các chuỗi sonnet do Paz và nhà thơ Charles Tomlinson tạo ra dựa trên lời thoại của nhau; và Árbol adentro (1987), trong đó nhiều bài thơ dựa trên tác phẩm của các nghệ sĩ như Marcel Duchamp và Robert Rauschenberg . Một tuyển tập bằng tiếng Anh, The Collected Poems of Octavio Paz, 1957–1987, được xuất bản năm 1987.
Các tác phẩm văn xuôi sau này của Paz, một số nguyên bản bằng tiếng Anh, bao gồm Conjunciones y disunciones (1969), một cuộc thảo luận về thái độ văn hóa của thế giới; El mono gramático (1974), một bài thiền về ngôn ngữ; và Tiempo nublado (1983), một nghiên cứu về chính trị quốc tế nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Châu Mỹ Latinh.

Paz lần lượt chịu ảnh hưởng chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Siêu thực, chủ nghĩa Hiện sinh, Phật giáo và Ấn Độ giáo. Trong thơ ở tuổi trưởng thành, ông đã sử dụng dòng hình ảnh siêu thực phong phú để giải quyết các câu hỏi siêu hình. Paz đã khám phá các lĩnh vực văn hóa hiện đại và chủ đề nổi bật nhất của ông là khả năng con người vượt qua nỗi cô đơn hiện sinh thông qua tình yêu và khả năng sáng tạo nghệ thuật.

Ngoài giải Nobel, Paz còn nhận được nhiều giải thưởng khác, trong đó có Cervantes - giải thưởng danh giá nhất dành cho tiếng Tây Ban Nha. Toàn tập tác phẩm của Octavio Paz, Obras completas de Octavio Paz, gồm 15 tập được xuất bản từ năm 1994 đến năm 2004. The Poems of Octavio Paz (2012) là một tuyển tập các bài thơ được dịch sang tiếng Anh trong suốt sự nghiệp của ông.
...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
bềnh bồng tiếng hát ngợi ca xuân quê hương thanh bình / một thoáng nghe chừng tâm can tỳ phế thận đau nhói / gợi nhớ những cảm xúc chông chênh ngậm ngùi chới với ̶ ̶ ̶ sóng sánh trong ảo giác mất thăng bằng buổi giao thời
Nén nhang ngày Tết sao mà thơm/ Khói bay vào mắt làm mắt buồn/ Mắt buồn nhưng chỉ ngân ngấn lệ/ Tuổi con đã hiểu lệ như sương. -- Những câu thơ ngày Tết không vui, mà buồn vì rưng rưng trong khóe mắt là màu thời gian...
em dáng mới tháng giêng về ngụ/ giọt bích ngần thư thái vô ưu/ ngày nguyên đán phô nguyên lời gió/ tóc thơm mây rạng rỡ ca từ
Trong mơ tưởng của tôi/ Âm thanh những sợi mỏng nhịp nhàng. Neo trên cùng một nhịp. Ngày và Đêm. Giấc mơ và thành tựu. Anh và em./ Trong mơ tưởng của tôi / Ánh sáng rực rỡ sóng, run trong ngực viên đá bổn mạng đại dương xanh. Nhốt vào sâu thẳm tiếng đập sóng gió. Tôi trôi. Phập phồng điểm hẹn. Nhịp vui trái tim đẩy dòng chảy thời gian rộn ràng trong mạch máu./ Trong mơ tưởng của em. Thương khó một mùa gặp gỡ. Dẫu bước chân em giờ như chiếc lá khô lăn theo năm tháng. Mộng mơ là cuống mỏng manh. Nuối nhìn mắt gió.
Các nhà thơ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 21 đã góp phần tạo nên sự sinh động, thay đổi diện mạo thi ca Việt Nam. Thế giới ngày nay như một tảng băng đang trôi dần về vực lửa, nơi đó ranh giới của thiện ác phải trái trở nên mù mờ, lòng người bị phân chia bởi trăm ngàn biên giới, mọi niềm tin thành nghi hoặc. Trên tảng băng đang tan ấy, thi ca của lớp nhà thơ nữ này như một bến bờ để neo lại những phân rã, để hiệu đính lại những phù phiếm, sai lầm của định kiến, bằng cái nhìn sắc xảo, thực tế, táo bạo, thách thức. Thi pháp hiện đại, được thể hiện qua ngôn từ mới mẻ và hình ảnh đầy sáng tạo. Sức thuyết phục của họ dường như nằm ở then chốt Cảm Xúc Thi Ca, một thứ cảm xúc dịu dàng của nhân ái, tràn trề của tự do, kiêu hãnh của độc lập, ngang tàng của bức phá, cho người đọc thấy được một cái Tôi-Nữ-Tính đầy tự tin, lấp lánh nữ quyền. Nói có vẻ nghịch lý, nhưng, chính niềm tự tin, phóng khoáng ấy lại khiến thơ của họ mang chất thơ ngây và gợi cảm.
Năm Sửu sắp qua,/ Cứ nghĩ mình già,/ Thôi không đi nữa,/Thời buổi đại dịch, / Ai dám đi xa,/ Hàng không, /hỏa xa, /Cancel đủ kiểu/ Bước lên máy bay,/ Nào là hộ chiếu/ Ngóng đợi hụt hơi/ Lại thêm passport / Chích ngừa Cô Vít/ Đủ liều chẳng thiếu/ Lại thêm test mũi / Móc họng nhớt ra/ Tìm Corona / Âm tính mới được./ Lúc về thử trước / Chỉ một hai ngày /Dương tính bịnh lây / Cách ly ở lại.
nhiều khi tôi mơ màng thấy tôi đeo khẩu trang n95 trong giấc ngủ / đi vòng vèo vẫn thấy mình quanh quất vài tụ điểm trong không gian hẹp / bao lần mơ hồ định vị và với tay ̶ ̶ ̶ / bên kia cổng trời mở toang thông thoáng.
Tết cũng là dịp cho những người con dân Việt tưởng nhớ lại trận vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789). Đây là chiến công oanh liệt nhất của vị anh hùng dân tộc, đời đời được nhớ ơn. Tác giả Đinh Quốc An từ Nam đảo Úc gửi đến độc giả Việt Báo bài trường thi sau, miêu tả trận đánh có một không hai trong lịch sử nước nhà. Trân trọng giới thiệu.
những bài thơ buồn / những bài thơ vui / chia nhau trang giấy / chữ nghĩa đong đầy / câu văn ái ngại / đọc lên thấy buồn / đọc lên thấy vui ...
"Có phải cả cuộc đời mình/ là một bữa Điểm Tâm/ Chiếc giường đó/ gỗ trầm hương nào đóng..." Một bài thơ cảm khái về kiếp nhân sinh của nhà thơ Trần Mộng Tú. Mời đọc.