quê núi

04/12/202419:04:00(Xem: 2107)

tặng người cùng quê

 

 

channuixanh
tranh Đinh Trường Chinh



Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy

Một rừng. một núi. một quê hương

Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão

Than già như cây cội tà dương

 

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít

Cây tre còn trẻ đã phong trần

Lá bay theo gió mười phương thổi

Tản mạn như người buổi chiến tranh

 

Bùi ngùi quê khóc không thành tiếng

Đất đỏ tràn đi khắp nẻo đường

Nắng bụi mờ trời, mưa lầy đất

Con chó còi nhai miếng thảm thương

 

Gió chướng thổi qua cầu

Mười Bốn Cầu già như một bộ xương khô

Trăng soi lạnh cả vùng sông nước

Mạn ngược xuồng ai cố chống vô

 

Hoa cà phê đắng, hương nồng, ngất

Rỉa rúc vào tim thấm lịm hồn

Ruộng rẫy khuya về rêm tiếng suối

Mõ ốc cầm canh rợn cô thôn

 

Thấp thoáng gì trong màu quê cũ

Mà câu đồng thiếp quá ghê người

Bão đời kéo lê qua bão mắt

Ngằn ngặt lệ sâu cơn khóc ai

 

Quê khóc giùm anh hùng mạc vận

Mùa mưa gục ngã ngoài chiến trường

Mảnh hồn tan tác bay về núi

Sống lẩn vào trong nỗi tiếc thương

 

Quê xót giùm thân người con gái

Tháng Ba chết duối ở bên đàng

Chiều rơi một trái hoàng hôn

Tím tím mộ em vùi nông - Phước An

 

Quê tiếc giùm trăm con tình lỡ

Bàn tay cách trở mối tơ hồng

Này năm ba tấm u hờn mỏng

Vất vưởng trôi về đâu trống không

 

Hường rơi một nhánh trong câu hát

Nở trên môi nhỏ đỏ trái tim

Lấp lánh trôi dài theo nhịp phách

Rồi lạc về đâu mù bóng chim

 

Trầm Hương một đóa xanh hồn nhớ

Tóc thả huyền thơm sang nhà ai

Rồi cũng úa em trong hoài niệm

Trầm bay, hương đành chịu phôi phai

 

Mòn tay cố níu ân tình cũ

Mù bay con Yến tới xa xăm

Thủy xa, Phượng cũng thay màu áo

Hiu hắt lòng tôi bóng nguyệt nằm

 

Đi qua đường cũ, thăm nhà cũ

Rêu phong lỡ lói liếm hoen tường

Hoang phế nổi lên mùi ẩm mốc

Lòng ngăn giọt lệ nuốt vào trong

 

Đi qua đường cũ, thăm trường cũ

Cây đa trời đánh chết, không còn

Lối nào dẫn xuống khu Thiết Giáp

Ai dắt giùm lên núi Châu Sơn

 

Đi vô rừng rú, thăm mùa cũ

Đào hư một gốc kỷ niệm xanh

Tập thơ mối đùn cao nấm đất

Đau hoài trang giấy khóc thất thanh

 

Trèo lên cây sấu, cây cơm nguội

Hái xuống ăn cùng trái gió sương

Nhìn lung trên nẻo đời bay bụi

Kẻ còn, người mất, đứa tha hương

 

Khóc mùi một trận đi, quê núi

Vuốt ngực trôi xuôi những nỗi niềm

Trả hết về xưa cho gió xóa

Để hồn ươm vạt nắng vàng im

 

Trèo lên đỉnh dốc Đời sẽ thấy

Một rừng Một núi Một quê hương...

 

Phan Ni Tấn*

*

Phan Ni Tấn sanh năm 1946 tại Banmêthuột. Phụ thân là người Cần Giuộc, trôi dạt ra tới Huế, lập gia đình với cháu ngoại của viên Ngự Y triều Vua Khải Định, sau đó đưa gia đình lên Ban Mê Thuột sinh sống từ năm 1942. Bên ngoại thuộc dòng hoàng phái, bà Cố tổ Ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ chánh thức của vua Khải Định.

Phan Ni Tấn học trung học ở Banmêthuột (1960), Đại học Khoa Học Saigon (1969), và là sinh viên Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (1970). Sau biến cố 1975, ông đi tù cộng sản tại Ban Mê Thuột cho đến năm 1978 thì vượt ngục trốn về Sài Gòn sống đời trôi sông lạc chợ rồi vượt biển đến Thái Lan vào năm 1979, cuối cùng định cư tại Toronto, Canada từ năm 1980. Sau gần 40 năm đi làm cho hãng xưởng, hiện nay ông đã nghỉ hưu nhưng vẫn không ngừng sáng tác.

Phan Ni Tấn sáng tác nhạc và thơ từ trước 1975: thơ có đăng trên tạp chí Văn và Phổ Thông, nhạc phổ biến trong giới học sinh sinh viên miền Nam. Ở hải ngoại, ông tiếp tục sáng tác ca khúc và hợp tác với nhiều tạp chí văn chương tiếng Việt. Ông đã xuất bản nhiều tập nhạc, CD nhạc, thơ, truyện ngắn và tùy bút.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Qua khu rừng lau chiều rất ốm cọng dài ôm cọng ngắn hấp hiu làm sao ngắt được lùm hoa sóng níu ngọn thương thân bãi dập dìu
Cây xanh trên miễu đình | Hưởng bốn mùa cúng vái | Quỳ lạy những hình nhân | Thấm đẫm mùi nhang khói
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Thật sự chúng ta có cần/ Dựng lên hình ảnh của một người lính miền Bắc / bị người lính miền Nam thiêu sống / Mới nói lên được nỗi đau / Của cuộc nội chiến 20 năm / Chúng ta chưa đủ đau đớn / Cảnh người một dân tộc cùng màu da cùng tiếng nói / Cùng mang họ Nguyễn,họ Trần / Truy cùng đuổi tận / Căm thù,chém giết nhau / Bằng tất cả chồng chất oán hờn / Để nhân danh một chủ nghĩa nào đó
có lúc ngồi bên cửa sổ | tâm hồn lâng lâng | anh đưa em tách trà
... Thơ Trần Hạ Vi là sự hòa quyện giữa triết lý hiện đại, cảm xúc nữ tính và nhịp điệu đời sống, nơi mỗi câu chữ đều vừa biểu đạt, vừa phân tích, vừa soi chiếu – để người đọc vừa thấy mình trong đó, vừa ngỡ ngàng trước phát hiện mới về bản thân và thế giới. Phong cách này không chỉ làm nổi bật những xúc cảm đời thường được khúc xạ qua trí tuệ và ngôn từ, mà còn tạo nên một không gian thi ca nơi con người và thời đại, thân xác và ngôn từ, tình yêu và tự do cùng nhảy múa, vừa thật vừa mơ, vừa gần vừa xa, vừa dịu dàng vừa sắc sảo....
ở bên tả ngạn sương mù | áo em dính hạt mù u đến giờ | nhớ chờ anh nhé ngu ngơ | tàn cây cơm nguội đôi bờ còn thương
sau cùng thì Ba không cần nó nữa | cái thẻ có hiệu lực | hai năm hay ba năm | để được tạm trú trên đất nước của mình
Tới rồi mùa thu | Vẫn còn nắng. chưa thấy mù | Sẽ bưng mấy chậu phù du vô nhà