quê núi

04/12/202419:04:00(Xem: 2250)

tặng người cùng quê

 

 

channuixanh
tranh Đinh Trường Chinh



Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy

Một rừng. một núi. một quê hương

Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão

Than già như cây cội tà dương

 

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít

Cây tre còn trẻ đã phong trần

Lá bay theo gió mười phương thổi

Tản mạn như người buổi chiến tranh

 

Bùi ngùi quê khóc không thành tiếng

Đất đỏ tràn đi khắp nẻo đường

Nắng bụi mờ trời, mưa lầy đất

Con chó còi nhai miếng thảm thương

 

Gió chướng thổi qua cầu

Mười Bốn Cầu già như một bộ xương khô

Trăng soi lạnh cả vùng sông nước

Mạn ngược xuồng ai cố chống vô

 

Hoa cà phê đắng, hương nồng, ngất

Rỉa rúc vào tim thấm lịm hồn

Ruộng rẫy khuya về rêm tiếng suối

Mõ ốc cầm canh rợn cô thôn

 

Thấp thoáng gì trong màu quê cũ

Mà câu đồng thiếp quá ghê người

Bão đời kéo lê qua bão mắt

Ngằn ngặt lệ sâu cơn khóc ai

 

Quê khóc giùm anh hùng mạc vận

Mùa mưa gục ngã ngoài chiến trường

Mảnh hồn tan tác bay về núi

Sống lẩn vào trong nỗi tiếc thương

 

Quê xót giùm thân người con gái

Tháng Ba chết duối ở bên đàng

Chiều rơi một trái hoàng hôn

Tím tím mộ em vùi nông - Phước An

 

Quê tiếc giùm trăm con tình lỡ

Bàn tay cách trở mối tơ hồng

Này năm ba tấm u hờn mỏng

Vất vưởng trôi về đâu trống không

 

Hường rơi một nhánh trong câu hát

Nở trên môi nhỏ đỏ trái tim

Lấp lánh trôi dài theo nhịp phách

Rồi lạc về đâu mù bóng chim

 

Trầm Hương một đóa xanh hồn nhớ

Tóc thả huyền thơm sang nhà ai

Rồi cũng úa em trong hoài niệm

Trầm bay, hương đành chịu phôi phai

 

Mòn tay cố níu ân tình cũ

Mù bay con Yến tới xa xăm

Thủy xa, Phượng cũng thay màu áo

Hiu hắt lòng tôi bóng nguyệt nằm

 

Đi qua đường cũ, thăm nhà cũ

Rêu phong lỡ lói liếm hoen tường

Hoang phế nổi lên mùi ẩm mốc

Lòng ngăn giọt lệ nuốt vào trong

 

Đi qua đường cũ, thăm trường cũ

Cây đa trời đánh chết, không còn

Lối nào dẫn xuống khu Thiết Giáp

Ai dắt giùm lên núi Châu Sơn

 

Đi vô rừng rú, thăm mùa cũ

Đào hư một gốc kỷ niệm xanh

Tập thơ mối đùn cao nấm đất

Đau hoài trang giấy khóc thất thanh

 

Trèo lên cây sấu, cây cơm nguội

Hái xuống ăn cùng trái gió sương

Nhìn lung trên nẻo đời bay bụi

Kẻ còn, người mất, đứa tha hương

 

Khóc mùi một trận đi, quê núi

Vuốt ngực trôi xuôi những nỗi niềm

Trả hết về xưa cho gió xóa

Để hồn ươm vạt nắng vàng im

 

Trèo lên đỉnh dốc Đời sẽ thấy

Một rừng Một núi Một quê hương...

 

Phan Ni Tấn*

*

Phan Ni Tấn sanh năm 1946 tại Banmêthuột. Phụ thân là người Cần Giuộc, trôi dạt ra tới Huế, lập gia đình với cháu ngoại của viên Ngự Y triều Vua Khải Định, sau đó đưa gia đình lên Ban Mê Thuột sinh sống từ năm 1942. Bên ngoại thuộc dòng hoàng phái, bà Cố tổ Ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ chánh thức của vua Khải Định.

Phan Ni Tấn học trung học ở Banmêthuột (1960), Đại học Khoa Học Saigon (1969), và là sinh viên Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (1970). Sau biến cố 1975, ông đi tù cộng sản tại Ban Mê Thuột cho đến năm 1978 thì vượt ngục trốn về Sài Gòn sống đời trôi sông lạc chợ rồi vượt biển đến Thái Lan vào năm 1979, cuối cùng định cư tại Toronto, Canada từ năm 1980. Sau gần 40 năm đi làm cho hãng xưởng, hiện nay ông đã nghỉ hưu nhưng vẫn không ngừng sáng tác.

Phan Ni Tấn sáng tác nhạc và thơ từ trước 1975: thơ có đăng trên tạp chí Văn và Phổ Thông, nhạc phổ biến trong giới học sinh sinh viên miền Nam. Ở hải ngoại, ông tiếp tục sáng tác ca khúc và hợp tác với nhiều tạp chí văn chương tiếng Việt. Ông đã xuất bản nhiều tập nhạc, CD nhạc, thơ, truyện ngắn và tùy bút.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thơ của hai thi sĩ Nguyễn Hàn Chung & Trần Hạ Vi...
Thơ của các thi sĩ Huỳnh Liễu Ngạn, Trần Hạ Vi, Thy An, Ben Oh
chỉ là trò đố chữ em có biết thế nào khi em là người hành khách duy nhất nếu đó là nơi xa hơn nơi tôi xin em đừng đi.
cùng em lập địa hoang đàng | từ phơi mở với tình tang | rập rờn | bóng nắng chiều | thổi | cô đơn | vào trong lục tía | hồng ngôn cực tình
Thơ của Nguyễn-hòa-Trước, Quảng Tánh Trần Cầm, Trần Hoàng Vy, Hoàng Thị Bích Hà, Trần Yên Hòa...
Những tương phản | chiều sâu và bề mặt | hai bên của đồng tiền không nhìn thấy nhau, là một nhưng xa lạ | Cháy lên hay tan vào đất | lá đơn sơ chỉ có hai chọn lựa
Ghi lên đá một thuở áo sờn vai / Vác thập ác quảy tiêu điều âm vọng / Nợ máu xương, nợ người lận đận / Của một thời vàng tím trẻ trai...
Nhà phê bình văn học Trung Quốc đời nhà Thanh, Viên Mai, có nói, “Làm người không nên có cái tôi, nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Thi hào Tagore cho rằng, “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ảnh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. Cả hai nhận định này đều đề cao cái Tôi-làm-Thơ, và cách biểu hiện những thuộc tính về Tôi ấy như thế nào trên ngôn từ thơ. Có hai yếu tố không ai phủ nhận được là cảm xúc và sáng tạo, chính hai yếu tố này định hình phong cách của nhà thơ. Cảm xúc thực được chuyển tải qua thi ngữ, thi ảnh mới mẻ, cá biệt, thì thơ càng có sắc thái nổi bật để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc, dường như không quá để nói rằng điều này định đoạt sinh mệnh một bài thơ. Thơ chỉ thực sự sống khi nó phản ảnh được bản ngã độc đáo của nhà thơ.
Thơ của hai thi sĩ Thy An & Lê Minh Hiền
Nhận được bài thơ của người bạn Phạm Xuân Tích, tôi thấy bài thơ của ông bạn khá độc đáo và lý thú, tôi mạo muội viết lại sao y bản chính – cả hai bản tiếng Pháp và bản dịch tiếng Việt cũng của ông ấy, để hầu các vị đọc cho vui...