quê núi

04/12/202419:04:00(Xem: 2177)

tặng người cùng quê

 

 

channuixanh
tranh Đinh Trường Chinh



Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy

Một rừng. một núi. một quê hương

Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão

Than già như cây cội tà dương

 

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít

Cây tre còn trẻ đã phong trần

Lá bay theo gió mười phương thổi

Tản mạn như người buổi chiến tranh

 

Bùi ngùi quê khóc không thành tiếng

Đất đỏ tràn đi khắp nẻo đường

Nắng bụi mờ trời, mưa lầy đất

Con chó còi nhai miếng thảm thương

 

Gió chướng thổi qua cầu

Mười Bốn Cầu già như một bộ xương khô

Trăng soi lạnh cả vùng sông nước

Mạn ngược xuồng ai cố chống vô

 

Hoa cà phê đắng, hương nồng, ngất

Rỉa rúc vào tim thấm lịm hồn

Ruộng rẫy khuya về rêm tiếng suối

Mõ ốc cầm canh rợn cô thôn

 

Thấp thoáng gì trong màu quê cũ

Mà câu đồng thiếp quá ghê người

Bão đời kéo lê qua bão mắt

Ngằn ngặt lệ sâu cơn khóc ai

 

Quê khóc giùm anh hùng mạc vận

Mùa mưa gục ngã ngoài chiến trường

Mảnh hồn tan tác bay về núi

Sống lẩn vào trong nỗi tiếc thương

 

Quê xót giùm thân người con gái

Tháng Ba chết duối ở bên đàng

Chiều rơi một trái hoàng hôn

Tím tím mộ em vùi nông - Phước An

 

Quê tiếc giùm trăm con tình lỡ

Bàn tay cách trở mối tơ hồng

Này năm ba tấm u hờn mỏng

Vất vưởng trôi về đâu trống không

 

Hường rơi một nhánh trong câu hát

Nở trên môi nhỏ đỏ trái tim

Lấp lánh trôi dài theo nhịp phách

Rồi lạc về đâu mù bóng chim

 

Trầm Hương một đóa xanh hồn nhớ

Tóc thả huyền thơm sang nhà ai

Rồi cũng úa em trong hoài niệm

Trầm bay, hương đành chịu phôi phai

 

Mòn tay cố níu ân tình cũ

Mù bay con Yến tới xa xăm

Thủy xa, Phượng cũng thay màu áo

Hiu hắt lòng tôi bóng nguyệt nằm

 

Đi qua đường cũ, thăm nhà cũ

Rêu phong lỡ lói liếm hoen tường

Hoang phế nổi lên mùi ẩm mốc

Lòng ngăn giọt lệ nuốt vào trong

 

Đi qua đường cũ, thăm trường cũ

Cây đa trời đánh chết, không còn

Lối nào dẫn xuống khu Thiết Giáp

Ai dắt giùm lên núi Châu Sơn

 

Đi vô rừng rú, thăm mùa cũ

Đào hư một gốc kỷ niệm xanh

Tập thơ mối đùn cao nấm đất

Đau hoài trang giấy khóc thất thanh

 

Trèo lên cây sấu, cây cơm nguội

Hái xuống ăn cùng trái gió sương

Nhìn lung trên nẻo đời bay bụi

Kẻ còn, người mất, đứa tha hương

 

Khóc mùi một trận đi, quê núi

Vuốt ngực trôi xuôi những nỗi niềm

Trả hết về xưa cho gió xóa

Để hồn ươm vạt nắng vàng im

 

Trèo lên đỉnh dốc Đời sẽ thấy

Một rừng Một núi Một quê hương...

 

Phan Ni Tấn*

*

Phan Ni Tấn sanh năm 1946 tại Banmêthuột. Phụ thân là người Cần Giuộc, trôi dạt ra tới Huế, lập gia đình với cháu ngoại của viên Ngự Y triều Vua Khải Định, sau đó đưa gia đình lên Ban Mê Thuột sinh sống từ năm 1942. Bên ngoại thuộc dòng hoàng phái, bà Cố tổ Ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ chánh thức của vua Khải Định.

Phan Ni Tấn học trung học ở Banmêthuột (1960), Đại học Khoa Học Saigon (1969), và là sinh viên Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (1970). Sau biến cố 1975, ông đi tù cộng sản tại Ban Mê Thuột cho đến năm 1978 thì vượt ngục trốn về Sài Gòn sống đời trôi sông lạc chợ rồi vượt biển đến Thái Lan vào năm 1979, cuối cùng định cư tại Toronto, Canada từ năm 1980. Sau gần 40 năm đi làm cho hãng xưởng, hiện nay ông đã nghỉ hưu nhưng vẫn không ngừng sáng tác.

Phan Ni Tấn sáng tác nhạc và thơ từ trước 1975: thơ có đăng trên tạp chí Văn và Phổ Thông, nhạc phổ biến trong giới học sinh sinh viên miền Nam. Ở hải ngoại, ông tiếp tục sáng tác ca khúc và hợp tác với nhiều tạp chí văn chương tiếng Việt. Ông đã xuất bản nhiều tập nhạc, CD nhạc, thơ, truyện ngắn và tùy bút.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thơ ba dòng là một thứ “hố đen” trong vũ trụ thơ. Đó là thứ “thơ còn lại” sau khi thiêu rụi những rườm rà, những quy cách, những lối mòn của những đường lối thơ đã trở nên chán ngắt mà, trong đó, nổi bật nhất, là sự mượt mà du dương của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ ba dòng, do đó, là thơ để nghĩ hơn là để ngân nga như những nhạc điệu êm tai và, trong tương tác với người đọc, như là một thứ thơ đã nén chặt, nó sẽ bùng nổ theo những liên tưởng và suy tưởng không ngờ.
Thanh âm một cõi Sa Bà / Ba ngàn thế giới cũng là tại tâm / Nước non chung một cung trầm / Máu sa lệ sót những lầm than đau
Mối tình đầu đã giết dì tôi / như người ta giết bông hoa / cắm lên bàn thờ / héo hon tháng ngày còn lại. / Dì tôi yêu thích và buồn theo tiếng hát / “Đồi Thông Hai Mộ” / Như thể mối tình trong ca khúc này / là tâm sự của dì tôi.
nguyên thủy là kêu gọi trở về / nơi cánh đồng của những trong lành tươi mát / chưa nảy sinh những dị biệt / chân đi trên phù sa / ướt những tấm lòng xanh ngát bao la
một ngày trôi giạt theo sóng vào bờ / một ngày quấn quýt từng bước chân trần / tuổi trẻ bềnh bồng không định hướng / một ngày câm nín xao động ôm trái tim mình / bay cao ngang ngửa trên ngọn cây mộc lan / trập trùng những nụ búp xanh tươi mơn mởn
Tập thơ thứ 11: “Đời Sống Làng Quê” ấn hành năm 2009. Được xem như một khúc quanh trong sự nghiệp thi ca của Louise Gluck. Khác hẳn với tập “Hoa Diên Vĩ Hoang Dại”, 1992, với nội dung siêu hình và siêu nhiên, đã tạo cho bà nhiều danh vọng. 1. “A Village Life” mang đến cho độc giả những cảm xúc thâm trầm về tâm sinh lý của cá nhân và xã hội. Một loại xã hội thực tế, dùng lám ẩn dụ, tuy hiện diện nhưng gần như bị lãng quên bởi đời sống phố thị rộn ràng nhốn nháo. Những mẫu chuyện ngắn thật ngắn, nhỏ thật nhỏ, đôi khi phức tạp, ly kỳ. Đa số bình thường với những nhận xét tinh tế:
Đàn ông biết được phụ nữ bao nhiêu? Tôi dùng chữ “biết”, không phải ý chữ “hiểu”. Tôi không dùng chữ “đàn bà” vì e rằng thiếu kính trọng. Tôi lấy vợ đã gần nửa thế kỷ. Đã bắt tay, chào hỏi vài ngàn phụ nữ và nhìn ngắm họ qua trăm ngàn vóc dáng khi du hành nhiều nơi trên thế giới, nếu tính luôn trên truyền hình, qua video, con số có thể lên hàng triệu. Nói như vậy, bạn đọc có thể lầm tưởng tôi là người có bản lãnh biết về phụ nữ, thực tế, như Louis de Bernières đã nói: “Đường lối phụ nữ chinh phục trái tim đàn ông là khiến cho anh ta tưởng bở đang làm cô thích thú.” (“That's how a woman wins a man heart, by making him think that he amuses her.)
điều nguyên vẹn nhất / vẫn nằm im trong tim / ngày mùa thu nhớ dòng sông / nấm đất buồn tênh bên lở bên bồi / quăng viên sỏi trắng cạnh chiếc cầu run rẩy / bàn tay nào níu giữ / bạn bè và tình nhân / ngẩn ngơ năm ba lời tiếc nuối / con chim non hót mấy tiếng cội nguồn
Thế giới giờ này người né người! / Ngồi trên xe bus gắn máy lạnh, hoặc xe bò cọc cạch lăn bánh, / người ngồi xa người, khoảng cách an toàn, một thước rưỡi. / Anh xa tôi! Tôi xa em! Ta xa nhau! Đúng 2 thước. / Giờ này đôi ta hôn nhau nụ hôn gió qua khẩu trang! / Ai đó lỡ miệng ách-xì một, hoặc hai tiếng, hoặc một tràng; / Hết rồi những ánh mắt ái ngại, / những lời nói cảm thông, “God bless,” hoặc “Trời, Phật, Chúa chữa!”
Mời các bạn đọc một ngụ ngôn tân thời của thi sĩ Nobel Louise Gluck. Bóng tối che đậy tội ác. Che giấu những con mèo từ rừng hoang xuống trà trộn vào thành phố. Ban ngày, chúng hiền lành. Về đêm, mèo lộng hành, bè đảng, lòng dạ hung tợn, ngay cả người cũng sợ. Chúng săn đuổi, tiêu diệt những sinh vật không có sức kháng cự. Thảm thương cho thân phận làm chuột. Ngày không dám nhìn mặt trời. Đêm la hét đau đớn dưới răng mèo sắc bén. Chết, Chuột chết la liệt đầy phố đêm. Ai biết? Biết rồi, ai nói? Trước khi trời sáng, xã hội quét dọn, đường phố sạch sẽ, không dấu vết sát thủ, nạn nhân. Mặt trời lên. Mèo hiều hậu, dễ thương, Chuột trốn nắng. Người vô tư. Nhưng rồi đêm sẽ đến, sẽ tiếp diễn máu me và định mệnh.