Lửa, Thấy Từ Stochkholm

20/06/202500:00:00(Xem: 1517)

Hình để Cường dùng cho web only với bài thơ


Thomas von Vegesack* quẹt diêm
Lửa bếp, Lửa đèn. Lửa lò sưởi
Ngọn nến bữa ăn chiều lung linh
Quặn lòng quê xa, bạn tù tội

Phương Đông: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
Quê ta, bao nhiêu ngũ hành sơn
Bếp ai tro lạnh chiều nay nữa
Lửa gì đâu. Lửa tủi, lửa hờn

Nâng ly rượu thơm, bọt dàn dụa
Tưởng thấy dòng thác xưa vật mình
Ghềnh đá trơ vơ sùi bọt nhớ
Thơ chết oan đầy của tử sinh

Nắm xương ai gửi rừng Xuyên Mộc**
Ngọn đèn nào leo lét gió mưa
Cơm kêu. Kẻng gõ. Miệng khô khốc
Con đóm đêm nao vẫn vật vờ

Bạn ta nữa. Chân núi Mây Tào***
Mười ba năm rừng sâu sức cạn
Chiều khổ sai, khoai sắn ra sao
Lửa nào giữ cho lòng đủ ấm

Tha lỗi nhé. Miếng ngon nuốt nghẹn
Vui riêng cứng lưỡi, thốt không đành
Cháy mãi cùng ta vậy, nghe nến
Ngọn lửa anh em ngày tái sinh.

Stockholm. 9.1988

*Thomas von Vegesack, nhà văn Thụy Điển, nguyên chủ tịch văn bút thế giới,
chủ tịch điều hành Ủy ban quốc tế các nhà văn vị cầm tù.

**Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn chết tại trại khổ sai Xuyên Mộc.
***Nhà văn Thảo Trường bị giam tại trại khổ sai Z30D, Hàm Tân.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
sau bấy nhiêu năm / con dốc không già hơn / không nghèo hơn / không trơ trọi hơn / nó chỉ biến / nó chỉ mất / không để lại một dấu tích...
tháng tư / mùa xuân trở mình / lung lay những ký ức và phế thải ngủ quên...
Trở về rồi, Thầy có thấy gì không? / Đôi mắt em, trên hàng cây phượng đỏ / Khi đầu hè hoa trổ bông rực rỡ / Sợ ngày chia tay lá khép chờ mong...
Chuyện tích xưa, nơi kinh thành Xá Vệ / Cung điện nguy nga, lộng lẫy cõi nhân gian / Vua Tịnh Phạn, trên ngai vàng tối thượng / Hoàng hậu Ma Da, ngôi phượng các uy nghi...
Mẹ giờ ở phía mây bay / Có khi tịnh độ phương Tây niết bàn / Có khi hồn phách miên man / Lối về quê với hàng hàng sương giăng...
em tôi sanh 7 tháng 5 / thua tôi năm tuổi / năm năm cuộc đời / rừng màu em mãi rong chơi / đêm rung hương bố / ngày vung cọ màu...
Nhã Ca với tập thơ đầu tay Nhã Ca Mới, đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1965. Giải Khăn Sô Cho Huế (1969) đoạt Giải Văn Chương Toàn Quốc về văn năm 1970, và Tuệ Mai đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1966 với thi phẩm Không Bờ Bến. Thơ. Họ là cột mốc đánh dấu cho sự chuyển mình khai phá bứt ra khỏi phong cách thi ca tiền chiến. Thi ngữ, thi ảnh nơi họ khơi gợi ở người đọc cảm xúc mới mẻ, thi pháp tuy còn giữ nhiều về thể luật của các loại thơ vần điệu, nhưng được chở dưới nhạc điệu cấu tứ mới – kể cả lục bát – nên cũng có thể nói họ đã cách tân những thể loại thơ này vào thời đó, đặc biệt, ở thể loại tự do, với Nhã Ca, một luồng gió mạnh thổi bật gốc rễ của trói buộc ngôn từ, định kiến.
Câu thơ chưa kịp viết / Cả rừng cây đứng chờ / Và gió ngàn vẫy gọi / Tới đây xem mùa thu...
ghi thêm nét sắc hình hài / vẽ lên câu chữ ngón tay chợt buồn…
nặng lòng là bởi / xuân đang tới / và cây đang rộn rã lên hồng / ta đã đi / chưa chào em, đà-lạt!...