Lửa, Thấy Từ Stochkholm

20/06/202500:00:00(Xem: 1535)

Hình để Cường dùng cho web only với bài thơ


Thomas von Vegesack* quẹt diêm
Lửa bếp, Lửa đèn. Lửa lò sưởi
Ngọn nến bữa ăn chiều lung linh
Quặn lòng quê xa, bạn tù tội

Phương Đông: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
Quê ta, bao nhiêu ngũ hành sơn
Bếp ai tro lạnh chiều nay nữa
Lửa gì đâu. Lửa tủi, lửa hờn

Nâng ly rượu thơm, bọt dàn dụa
Tưởng thấy dòng thác xưa vật mình
Ghềnh đá trơ vơ sùi bọt nhớ
Thơ chết oan đầy của tử sinh

Nắm xương ai gửi rừng Xuyên Mộc**
Ngọn đèn nào leo lét gió mưa
Cơm kêu. Kẻng gõ. Miệng khô khốc
Con đóm đêm nao vẫn vật vờ

Bạn ta nữa. Chân núi Mây Tào***
Mười ba năm rừng sâu sức cạn
Chiều khổ sai, khoai sắn ra sao
Lửa nào giữ cho lòng đủ ấm

Tha lỗi nhé. Miếng ngon nuốt nghẹn
Vui riêng cứng lưỡi, thốt không đành
Cháy mãi cùng ta vậy, nghe nến
Ngọn lửa anh em ngày tái sinh.

Stockholm. 9.1988

*Thomas von Vegesack, nhà văn Thụy Điển, nguyên chủ tịch văn bút thế giới,
chủ tịch điều hành Ủy ban quốc tế các nhà văn vị cầm tù.

**Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn chết tại trại khổ sai Xuyên Mộc.
***Nhà văn Thảo Trường bị giam tại trại khổ sai Z30D, Hàm Tân.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
ai sẽ mở cửa cúng rằm / bọn chúng ma sống / lóc vỏ cây / một bầy lặt cỏ cỏ nguỵ trang gốc / sống chui rúc trong kẽ lèn chủ thuyết
Em cứ yêu đi đâu cần chi li / yêu dung dị / tình yêu chưa hề / là xa xỉ phẩm
lời kinh thấm sâu vào Đất Trời rộng lớn / sớm mai nguyện cầu / kiếp nhân sinh mù mịt / mất còn trong gang tấc / những con lạch nước đen mùi bùn réo rắt kỷ niệm / những đêm trăng hoang sơ / im lặng như thơ
con giun nằm yên lòng đất co mình dưới bàn chân hung bạo / tiếng than của đồng loại thấm sâu / nghe trăn trở oặn mình / tấm thân như cỏ dại / trườn đi vào những quanh co ái ngại / con người tinh khôn nhất / nên đã đóng vai tất cả các loài thú / vượt qua bao nhiêu năm tháng
tháng mười trời mưa / tình anh là mây / đậu lại bờ này / hôn từng ngọn cỏ / gửi lời thơ bay / từng hạt sương mai / ướt tóc em dài / thấm vai hờ hững / cho hồn anh say
Độc giả nào đọc thơ Ngu Yên trong 36 năm qua (từ 1985), có lẽ cũng nhận ra, thơ của ông luôn luôn thay đổi vì luôn luôn tìm tòi, đào sâu bí ẩn của thi ca. Ông đã từng xác nhận, hành trình làm thơ là thứ yếu, mục đích lớn hơn, là truy lùng và dự đoán thơ thế giới và thơ Việt trong tương la. Ông là người thám hiểm phiêu lưu.
Thị Ngạn am một “ Góc Tùng” tự tại / Hai nẻo đường gánh vác nặng trên vai / Thân gầy gò ý chí chẳng đơn sai / Phách kim cang trong hình hài lau sậy
Vào thời điểm này, phải chăng thơ đã là món ăn tinh thần lỗi thời, mất hương vị quyến rũ, thua mùi phở hấp dẫn khi đói bụng? Đúng như vậy, có đói mới thèm ăn. Làm sao biết tâm tư của bạn đang đói? Hỏi thử nó có mệt mỏi, có căng thẳng, có phiền muộn chuyện đời, có ghét bỏ người khác? Nếu có, đúng rồi, nó đang đói. Thơ là món ăn tinh thần cổ truyền từ tiền sử. Nếu tiểu thuyết là bữa tiệc, truyện là bữa ăn tối, thì thơ Việt chính là phở. Một món ăn độc đáo cho bất kỳ người Việt nào tại gia hoặc tha hương.
cố gắng không rơi tõm xuống hố chữ nghĩa đen ngòm / đặc trưng của những ngày giãn cách xã hội theo chỉ thị / bầm dập nhừ tử sau cú trượt trên thang cuốn thời gian / hẹn một ngày có dịp chén thù chén tạc đưa cay ngả mặn /
khi đồng bằng cất tiếng ru của dòng sông / đất trời sẽ trở mình / thức dậy theo tiếng kêu tình nhân sông núi / tuổi xế chiều và bóng tối / đồng lõa một chút yêu nhau vội vã / như chén tương phùng uống cạn bình minh