chân mây

26/09/202514:31:00(Xem: 885)
DinhCuong_BongMay
Bóng mây -- Tranh Đinh Cường [1939-2016].

 

Nắng vạm vỡ leo bám lưng trưa, Ci sei tu… Em ở đó… Mùa hè nào đã đi qua. Đi qua như một tích tắc đời. Connie Francis Al di là cao vút giữa ngày, gọi nắng xuống cho đầy chiều chưa tới. Khi môi mấp máy điệu hờ tháng 9. Khi màu hoàng hổ trườn trên chiếc lá thu còn sót chút lục xanh. Như môi người còn đọng thanh xuân. Như mọi điều đã đi qua rớt lại mối diên trì.
 
Tháng 9 nhìn mây xa, từng khoanh tròn lững trắng, lượn phớt trời xanh bao la qua bao ngàn lơ đểnh ký ức. Có những người con gái thả lửng mái tóc trong chiều, gió thổi suốt từng cơn, cuốn vài sợi nhỏ đậu vào môi má. Họ sẽ vuốt cho tóc chảy dài thành sóng gợn nối mây trôi. Từ đó có tóc mây và thương nhớ.
 
Nhớ ôm lấy không gian trước mặt để tưởng về một thời gian đã mất xa lâu. Nhớ có màu không nhỉ? Có thể lắm, khi hương mang sắc thanh thanh chuyển đổi qua màu tím ngát. Hương màu xúc tác cho thính giác quyện vào thị giác của Đoàn Phú Thứ trong Màu Thời Gian. Đó là vết quét quyết liệt thi sĩ gieo màu lên bố, vẽ lại Duyên trăm năm đứt đoạn / Tình một thuở còn hương.
 
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
(Màu thời gian, Đoàn Phú Tứ)
 
Không dưng giữa bài thơ hương thời gian ông Đoàn gọi tên Tần phi. Hẳn là có chủ ý, bởi chưng chuyện người xưa, mà lại trùng hợp với hoàn cảnh hôm nay, không thể không nhớ lại, để hâm nóng cõi lòng bây giờ nên Ngàn xưa không lạnh nữa. Giai thoại kể rằng ông yêu thầm kín một nàng thục nữ đoan trang con nhà danh giá chốn Hà thành. Chẳng may nàng bạc mệnh ra đi rất sớm lúc tuổi mới thanh xuân. Thi sĩ muốn gặp mặt lần cuối nhưng nàng không khứng chịu vì đã quá tiều tụy và chỉ muốn giữ mãi hình ảnh xinh đẹp ngày nào trong lòng nhà thơ. Vì vậy Đoàn Phú Thứ ẩn dụ tích xưa của Lý phu nhân, lúc gần mất, không cho vua Hán Võ Đế gặp, sợ trông thấy nét mặt đau yếu của mình vua sẽ hết yêu. Tần phi, có lẽ nhà thơ đặt tên vì lý do đó.(1)

Đoàn Phú Tứ gọi Tần phi vì nhớ chuyện xưa ra chuyện mình, Hàn Dũ thấy mây bay qua ngọn Tần Lĩnh liền khắc nhớ nhà, Mây ngang Tần Lĩnh, nhà đâu tá?
 
Có liên hệ gì chăng giữa mây bay và nhớ nhung? Khi giấc mộng không trở thành hiện thực, khi bị vây hãm trong tù túng địa lý hay tinh thần, người ngước nhìn đám mây bay và gửi gấm tâm tư. Mây thành hình trạng của tự do, bay bổng không ràng buộc, như ý muốn, như phương tiện thay người hoàn thành ước nguyện.
 
Mây bay ngang có khi dẫn mưa, có khi chỉ làm nền gợi hứng cho thi sĩ mơ mòng. Mây mưa dấy động những ân tình dấu kín, những thời khắc đam mê lãng mạn riêng tư. Bởi thế vua Sở Tương Vương mới ngủ dưới chân núi Vu Sơn say vùi mộng mị cùng thần nữ. Mờ ảo và tan biến phôi pha như mây trời.
 
Mây có tự bao giờ? Theo truyền thuyết, Zeus, vua của muôn loài trong thần thoại Hy Lạp, đã tạo ra Nephele từ một đám mây. Mây vốn vô dạng, một làn khói lớn nổi trôi mượn gió tạo hình, dạng thể lấy hứng khởi từ mông lung và bất chợt. Thế nhưng thấy vậy mà chẳng phải vậy. Thay đổi là nguyên khởi của mọi sự. Vì vậy có lúc mây là áo trắng, một lát sau mây thành hình chó xanh, cho người ngâm nga thơ Đỗ Phủ,
 
“Trên trời mây nổi như áo trắng, phút chốc biến thành chó xanh” 
(Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu tư hốt biến vi thương cẩu).
 
Bức tranh vân cẩu vì thế là tấm hình nhiếp ảnh, thu tóm hiện thời, một đương thì hoan hỉ, lật tấm ảnh sang trang liền thấy bi thương thay đổi chẳng vừa ý. Trở lại thần Zeus, là một người yêu vợ, Hera, rất đỗi nên ổng nắn mây, vẽ gió cho nường Nephele mang hình dáng của vợ mình. Mới nghe ta cứ tưởng vì yêu vợ thắm thiết nên ở đâu cũng có em, thật ra có chủ ý tất. Lò cừ nung nấu sự đời là vậy, Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương (2) chẳng phải là chuyện vô cớ không đâu. Số là có một ông vua tên Ixion ngày đêm thầm yêu trộm nhớ hoàng hậu Hera, hơn cả ông Bùi mơ tưởng Kim Cương. Zeus là chúa tể trần gian nên chuyện gì cũng biết, ổng liền tương kế tựu kế phong chức Nephele thành Thần Mây, hư ảo và cám dỗ để quyến rủ vua Ixion. Ixion sa bẫy, giao cấu với đám mây (Nephele) sinh ra Centauros, một loài nhân mã đầu người thân ngựa. Một kết cấu giữa đam mê và cái ác. Vua chúa ngày xưa đều mượn tính vô thường bất chợt của mây để toan tính mây mưa và tính toan những âm mưu tình ái.
 
Thế rồi tự muôn thuở, mây vẫn bay bổng và vô định. Dù nàng Nephele không mời gọi, Vu sơn thần nữ chẳng trông chờ. Chỉ có con người mời gọi giấc mơ và trông chờ yêu dấu. Có khi điều không trông đợi lại đến, mang biết bao thú vị. Như em bất ngờ đến một ngày trong mưa xưa, như em vẽ lên một trời mênh mông mộng mị khôn hàn. Như em để lại, hay không trở lại, cho người ngồi trên bến nhớ mênh mông(3) Nhớ mênh mông, bởi cuộc chờ quá lớn? Hay hướng đợi về một cõi miền bất tận ta đã ôm tự thuở ban đầu? De mi quando(4) Nói cho tôi biết... Đến bao giờ mới nắm được cái mênh mông? Mênh mông là những lúc chiều xuống thấy ráng đỏ, ráng vàng ở cuối chân trời, chạnh lòng nhớ nghĩ về phía bên ấy đất trời ra sao, người bên ấy đã như thế nào? Hay không còn ai? Người xưa bảo cuối chân mây là nhà, là chốn ở mẹ cha, như ông Địch Nhơn Kiệt đời Đường một hôm lên núi nhìn đám mây đơn lẻ bay qua, bảo cùng đám tùy tùng rằng “nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây đó” rồi bùi ngùi đợi đám mây bay khuất mới chịu về.
 
Mùa thu kháng chiến thế kỷ trước, biết bao chàng trai tráng bỏ dở ước vọng tương lai để lên đường theo tiếng gọi quê hương, giải phóng giang sơn khỏi ách ngoại bang. Mộng đời dang dở, chí nguyện chưa thành, những chiều dừng quân không khỏi chạnh lòng,
 
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương?
(Mắt người Sơn Tây, Quang Dũng)
 
Đẹp và lãng mạn biết bao để rồi nhà thơ Quang Dũng bị dập vùi, kết án vì vẫn còn mang “tư tưởng tiểu tư sản”! Thật vô nghĩa khi cái ác và vô cảm luôn hiện diện trong mọi thời đại, khi người ta nhân danh đạo đức, đất nước và mọi danh xưng cao quý nhất để chôn vùi đạo đức, để đưa đất nước đến chỗ lầm than. Có phải mây là khói? Khói cuộn xuống xây thành. Có thành trì và tan biến như dã tràng xe cát. Vào thu khói biếc đã xây thành (Quang Dũng).
 
Tôi ngồi lại bên chiều khi ngày vừa xuống, đắm mình trong ráng chiều rực rỡ ngoài kia. Bây giờ, nắng vàng ánh áo hoàng gia đang rung từng thớ sắc cho quang phổ ngập xuống không gian, cùng màu đỏ tía chen đua như ngời sáng bình minh những ban mai không hẹn. Và xanh thẩm một trời cao của thu tiết, âm rền từng điệu nhớ. Trong thanh hợp của lặng yên, màu nắng đỏ rực diệm sơn hôn phối cùng xanh cerulean da ngời thiên giới cho tim tím khoác áo chân ngày tìm về nhân gian. Người thả hồn trong chiều ngân từng tiếng nước xa xôi bời bời thơ ấu. Bất giác Lệ Thu ngân dài một khúc sầu lệ chảy cho mùa thu kéo về, Chiều tím chiều nhớ thương ai...(5) Chiều tím ấy lịm dần theo hoàng hôn. Và lâng đêm tĩnh lặng. Đẹp như câu thơ Lý Thương Ẩn, Tịch dương vô hạn hảo.
 
Tôi nhắm mắt, mường tượng phía bên kia biển Thái Bình, mũi Chân Mây Đông mờ ẩn khi chiều xuống trong những chuyến hải hành một thời chinh chiến. Tất cả đã không còn, nhưng tôi biết phía ấy, cuối chân mây là nơi chốn tôi gọi nhà...

-- Vũ Hoàng Thư
(Tháng 9, 2025)

 

(1)  Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân

(2)  Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Gia Thiều

(3)  Người Về Bỗng Nhớ, nhạc Trịnh Công Sơn

(4)  Quando, quando, quando, nhạc Tony Renis

(5)  Chiều Tím, thơ Đinh Hùng, nhạc Đan Thọ

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Đôi khi Chàng gần, đôi khi Chàng xa / Chàng vẫn ngồi đâu đó từ hôm qua / Cho đến hôm nay, và ngày mai nữa / Dòng sông vẫn đầy và trôi đi xa.”
Cả Trung Quốc, một cõi người đông như cỏ, mới có một tài năng thần kỳ như Bào Đinh, cắt thịt như gió xuyên qua lá, tưởng chừng là loạn đao, mà lại thứ tự lành nghề, đạt đến kỹ thuật cao, và nghệ thuật độc nhất vô nhị. Nhưng vài mươi năm sau, ông ta qua đời. Từ đó, không còn ai thừa kế. Tài năng vượt thời gian trở thành truyền thuyết. Về sau, biết bao nhiêu người vì truyền thuyết đã mơ tưởng tu luyện để tiến đến nghệ thuật kỳ tài. Vì không thể nào lưu truyền, tài năng cắt thịt không mang lại ích lợi chung là bao nhiêu.
khi tôi ngước mặt trả lời / bà đã quay lưng / nắng sớm vươn theo lấp lánh / trên tóc trên vai / áo phất phơ bay trong gió
chút ánh sáng của núi rạng đông / phương đó quê hương là mặt trời / rót chén rượu ân tình nắng ấm / lòng xao xuyến như lần đầu tìm nhau / tấm lòng như con nước dâng cao / hạnh phúc như đến từ vũ trụ / giấc mơ vẽ lên bức tranh trăm nỗi / cuộc tương phùng cuối đời
Thơ ông có bí mật ma thuật ra sao? Xin đọc Howl (Hú), bạn đọc sẽ thấy chữ nghĩa biến hóa, phẩm chất văn chương văn học, cách mạng văn học, hòa tan vào nhau, cuồn cuộn bất ngờ, như múa lân, không biết lúc nào nó ngóc đầu, đập đuôi, xàng xê, nhảy cao, trồn đồn, lăn chiên. Đám muá lân đó, có Bùi Giáng đóng vai tề thiên đầy phép tắc và huyền thoại.
Saigon mẹ tôi không miếng trầu tươi / Không miếng vôi nồng, môi miệng biếng cười / Mẹ ngồi lặng nghe từng con số tới / Số cứ tăng dần, mắt Mẹ lệ rơi
bất kể dự báo thời tiết hôm nay & mười ngày tới / ở một nơi rất riêng tư ̶ ̶ ̶ trước không hề có tên / nay gọi vùng vịnh bóng đè / đối mặt một đại dương chưa bao giờ phẳng lặng
Ba bài thơ trên được trích từ tập sách "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang, sách gồm những bài tùy bút ngắn tác giả viết "Mà như vẽ lại... không hề tẩy xóa, chẳng tô vẽ thêm..." và những bài thơ "hiện thực đầy ẩn dụ". "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang là cuốn sách đầu tay và duy nhất được tác giả gởi tặng đến những người bạn của Nghiêu Đề và bạn Cô, với lời Nguyễn Thị Thụy Vũ viết thay đề tựa: "Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những giòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ không thể nào không nhắc tới, nhớ tới... Những quá khứ của thời đã "Chết đi, sống lại." Đọc Lê Chiều Giang là đứng lùi lại, ngắm nhìn những bức tranh vẽ lại kỷ niệm, bạn bè, tình yêu, những điều rất xa xưa, bằng cặp mắt của hiện tại, bức tranh của những tháng ngày cũ ẩn hiện bằng cảm xúc riêng của tác giả, nhưng rất chung như chính trăn trở của bạn bè, thế giới, thời đại của Cô. Đọc thơ Lê Chiều Giang, là để ngọn khói trong lòng mình bay lên, là "Mổ trái tim.
Thơ ba dòng là một thứ “hố đen” trong vũ trụ thơ. Đó là thứ “thơ còn lại” sau khi thiêu rụi những rườm rà, những quy cách, những lối mòn của những đường lối thơ đã trở nên chán ngắt mà, trong đó, nổi bật nhất, là sự mượt mà du dương của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ ba dòng, do đó, là thơ để nghĩ hơn là để ngân nga như những nhạc điệu êm tai và, trong tương tác với người đọc, như là một thứ thơ đã nén chặt, nó sẽ bùng nổ theo những liên tưởng và suy tưởng không ngờ.
Thanh âm một cõi Sa Bà / Ba ngàn thế giới cũng là tại tâm / Nước non chung một cung trầm / Máu sa lệ sót những lầm than đau