Hôm nay,  

Cá Vàng

07/01/202208:55:00(Xem: 2979)

TƯỞNG NIỆM HỌA SĨ ĐINH CƯỜNG

 

Hs Đinh Cường
Họa sĩ Đinh Cường.

 

“Sao lòng ta bỗng rộn ràng

Như những toa tàu sắp chạy

Thăm những nhà ga sắp hồi sinh

Những nhà ga sắp thở…”

-- Đinh Cường (1969)

 

Anh Đinh Cường gọi phone cho tôi chỉ hỏi: “Làm sao để thành... Cá?”

 

Cá bơi xuôi lội ngược, vẫy vùng trong biển lớn, hay quanh quẩn trong hồ ao? Cá đẹp óng ánh bơi ngược dòng, hay lừ đừ chịu trận trong lưới ngày, và ngay cả đang giãy giụa chết bởi những lưỡi câu lờ lững?

 

Không phải, Anh hỏi tôi về cá khác. Cá Vàng.

 

Năm 1997, anh Trần Công Sung từ Paris viết bài về chuyến ghé thăm một số bạn bè sống ở California và một vài tiểu bang khác. Tạp Chí Thế Kỷ 21 gửi xuống San Diego bài viết của Trần Công Sung viết riêng cho Nghiêu Đề, chỉ bởi từ câu nói đùa của anh: “Suốt bao năm, Giang ngắm nhìn tôi như thích một con Cá Vàng”.

 

Anh Trần Công Sung viết bài ngợi ca, khen tặng tất cả những “Vợ hiền” trên trái đất. Dù có thấp thoáng chút hồn thơ mộng, vẫn không dám chểnh mảng cái trách nhiệm khó khăn muôn đời của “Hội phụ nữ” chúng tôi: Bằng mọi giá, luôn xây dựng, vun xới quyết liệt cho một gia đình ấm êm, và hạnh phúc. Cuối cùng, anh Nghiêu Đề đau ốm buông bỏ hết mọi thứ, rồi ra đi. Và trước khi tôi bước những bước dài theo một Nhân Duyên hoàn toàn mới. Trong những chuyến du lịch xa xôi, tôi ghé Virginia thăm ngôi nhà thơ mộng của anh chị Đinh Cường.

 

Trên chiếc xe nhỏ màu đỏ, Anh chạy nhiều vòng qua mọi phố, loanh quanh cùng tôi xem những kiến trúc yêu kiều của DC. Nhớ nhất là lúc tôi ngồi dưới bóng của một tàn cây xanh mát, kiên nhẫn chờ Anh viết cho xong bài thơ bên dòng Potomac. Dòng sông với nước lung linh sáng trong ánh nắng gay gắt giữa trưa. Đúng giờ Ngọ.

 

Nhìn bóng nước xôn xao, tôi chợt tự hỏi có phải Anh đang nghĩ đến chiếc nhẫn anh đã quăng xuống hồ Tịnh Tâm? Ném đi mất tăm mối tình đầu tan vỡ của anh, ngay giữa dòng nước hồ tịch lặng. Chiếc nhẫn cũng như đáy hồ… Toàn những chuyện tôi được nghe kể lại. Chỉ có điều duy nhất mà tôi còn nhớ, sau 75 lúc phải sống, phải điên đầu trong than lửa nhọc nhằn, anh Nguyên Khai đã tiếc nuối hỏi đùa Đinh Cường: “Mi ném nhẫn đó góc nào? Để tau ra Huế, tìm cho ra chiếc nhẫn vàng dưới đáy hồ, sửa soạn một bữa tiệc linh đình, đãi anh em”.

 

Lái xe có khi lạc đường, quên lối, nhưng chúng tôi chẳng mấy quan tâm. Anh ghé hai quán café có trưng tranh, treo bán nhiều tác phẩm rất nhỏ anh ký gửi. Tôi thú vị tìm ra cái hay hay của những bố cục muốn vượt hẳn ra ngoài khung tranh, những nét vẽ miên man, bất tận trong một không gian nhỏ hẹp. Rõ ràng tôi đã quen thưởng lãm tác phẩm Đinh Cường qua những tấm canvas lớn. Bóng thiếu nữ dịu dàng đứng bên góc nhà thờ, thanh thoát bay cùng tiếng chuông xa vời, trong chiều thu im vắng.

 

Anh dặn dò: “Hôm nay anh mời, Giang phải uống rất nhiều, có thể uống trăm ly café cho hết tiền của hai bức tranh nhỏ vừa bán”. Tôi cũng hay café sáng, trưa và chiều tối, có khi cả tỷ tỷ ly trong những lúc chán đời, buồn bã từ ngày anh Nghiêu Đề đau ốm rồi ra đi. Nhưng hôm nay, một ngày rất đẹp, rất vui ở DC, chắc tôi không nên phí hoài như thế.

 

Anh tiếp tục lái xe, cứ lạc lối và cứ lạc đường, quyết để tìm mua những chai Red Wine, dưới trăm cái tên mà cả anh và tôi đều chẳng biết rượu ngon hay dở. Anh muốn dùng cho hết tiền tranh vừa mới có, không hết bởi café, thì phải uống thêm rượu đỏ. Uống như sự đãi ngộ, phải như một tưởng nhớ về người bạn thân vừa mới bỏ đời, ra đi...

 

Chiều nhạt nắng với ngàn lá phong rơi rụng, con đường mòn phía sau nhà Anh trải đầy lá úa. Chúng tôi ngồi café, nhắc lại nhiều kỷ niệm từ những ngày còn Hội Họa Sĩ Trẻ, những ngày tôi còn đi học, tôi còn bé xíu.

 

Tôi nhất định không muốn quên lời khiếu nại trong lần đầu tiên tôi gặp anh, anh theo dõi bức tranh của Nghiêu Đề. Bức tranh mà khi mang tới phòng triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ ở Alliance Française Gallery. Chân dung đẹp mơ màng của tôi với khung tranh chỉ được anh Nghiêu Đề quấn rất vội vàng bằng những sợi dây lạt. Với tôi, đó là một khung tranh khác lạ hay hay, còn có thêm cả sự chân tình, dễ thương. Nhưng ngay lập tức, anh Đinh Cường nói với tôi theo một ý nghĩa khác: “Bằng mấy vòng dây lạt đó, “Nó” sẽ trói đời cô vào cái kiếp sống lơ tơ mơ, sống vất vưởng trên cung trăng, sống lang thang bên ngoài trái đất …”

 

Và lời anh Đinh Cường nói đã như một tiên tri, những sợi dây lạt tưởng như mong manh dễ rớt rơi đó, đã trói buộc tôi với anh Nghiêu Đề, một họa sĩ tài hoa nhưng nghèo nhất nước. Chúng tôi đã sống chan hòa, sống cùng nhau cho đến hết, và cho đến chết.

 

Chị Đinh Cường mời thêm họa sĩ Ngọc Dũng, người có nhà rất gần, một bạn thân mà như hàng xóm. Chiều tà với lá tả tơi bay, lá rụng vàng theo gió sau hiên nhà. Chúng tôi ngồi với café, và những ly rượu đỏ.

 

“... Ngoài ta ai đón trăng huyền lặn

Mà dẫn đi qua khỏi cửu trùng?...”

– Trần Dần

 

Anh Ngọc Dũng đọc thơ Trần Dần, Hữu Loan. Tôi ngâm thơ Hoàng Cầm, Quang Dũng...

 

“... Vầng trán em vương trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn Tây phương

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương?...”

– Quang Dũng

 

Chúng tôi như đang sướt mướt, gọi mời những hồn ma bóng quế trong Nhân Văn Giai Phẩm về đây, ngồi với.

 

“...Chồng em rách nát chiến bào

Vi vu gió thổi, bay vào Kinh Đô…”

– Hoàng Cầm

 

Chút se sắt lạnh của chiều như làm những lời thơ xưa, nửa hùng tráng nửa buồn hơn.

 

Tôi nhắc anh Đinh Cường bài thơ mới bên dòng Potomac.

 

Anh tìm trong túi áo, anh ra tìm ngoài xe… Bài thơ chưa thuộc, bài thơ biến mất. Anh tiếc nuối những vần thơ vừa mất tích.

 

Nhớ nhớ quên quên, Anh thở những hơi dài trong pipe thuốc, đọc chút thơ có nhắc chiếc nhẫn đã quăng giữa lòng hồ Tịnh Tâm. Nhìn khói haft & haft mơ màng bay, nghe thơ mà cứ tưởng như đang nghe anh kể lại những kỷ niệm xa vời...

 

Tránh đi chút nặng nề của quá khứ, anh mời chúng tôi xuống basement, Studio với rất nhiều tranh sơn dầu. Hội Họa Sĩ Trẻ chỉ có anh là người vẽ nhiều tranh nhất. Anh có nhã ý tặng bức nào tôi muốn mang về California.

 

Tranh của anh tôi treo trong phòng khách, vẫn rất mơ màng và u hoài như một bài thơ cổ.

 

*

 

Chỉ một năm, sau lần chúng tôi ngồi café bên khu rừng phong rất đẹp ở nhà anh Đinh Cường. Từ nơi khác xa xôi, tôi biết tin anh Ngọc Dũng ra đi.

 

Nghiêu Đề, Ngọc Dũng, và rồi Đinh Cường. Những con Cá Vàng như lời ví von của một năm nào, rất cũ. Lần lượt đã theo dòng nước trôi, rồi biến mất tăm, và sẽ quên lãng hết, ngay cả trong lòng người.

 

Duy nhất anh Đinh Cường, người ước ao biến thành “Cá Vàng”.

 

Cá vàng đã lững lờ lặn sâu xuống dòng nước cũ, đã tìm cho ra dưới lòng hồ Tịnh Tâm, chiếc nhẫn nào đã ném đi từ những năm xưa.


Trên chiếc cổ nho nhỏ, Cá Vàng có mang thêm chiếc nhẫn.

 

Nhẫn vẫn đẹp rực rỡ và óng ánh sáng như một chiếc kiềng vàng.

 

– Lê Chiều Giang

 

 Một vài bức tranh của Họa sĩ Đinh Cường:

DC_Heaven&Earth
Heaven & Earth.

DC_StandingOnTheOtherSideOfLife
Standing On The Other Side Of Life.


 dinhcuongsummerlotus
Summer Lotus.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mang niềm đau và thân phận của cô bé mất tình thương cha mẹ từ thuở nhỏ, chịu nhiều khổ đau trên đất nước đầy bất hạnh bởi chiến tranh, Bé Ký dấn thân vào thế giới hội họa như một hiện tượng: họa sĩ của hè phố. Bé Ký xuất hiện trong hội họa Việt Nam với nét vẽ độc đáo, chân chất, mới lạ, đơn sơ nhưng trọn ý, tự tạo phong cách riêng biệt của mình rất thân quen trong sinh hoạt đời sống vỉa hè, thôn dã giữa cảnh xô bồ, hỗn độn của xã hội.
Tranh vào thế kỷ 18, “View of Verona with the Ponte delle Navi” (năm 1745-47) mô tả quan cảnh của một con kênh tại thành phố Ý. Sẽ được đem ra bán đấu giá sau 50 năm chuyền qua nhiều tay tư nhân, nó được dự kiến sẽ bán với giá từ 17 triệu Mỹ kim tới 25 triệu Mỹ kim.
Họa Sĩ Ann Phong cho biết rằng bà được Hội Nghệ Thuật VASCAM (The Vietnamese American Society for Creative Arts and Music) cô Anvi Hoàng mời tham dự một cuộc nói chuyện nghệ thuật tạo hình trên Facebook vào sáng ngày 20 tháng 5 năm 2021.
Berlin sinh vào ngày 11 tháng 5 năm 1888 tại Israel Beilin, trong lãnh địa của Đế Quốc Nga. Dù gia đình ông đã đến từ một làng nhỏ người Do Thái tại Tolochin (ngày nay là Belarus), giấy tờ nói rằng ông đã được sinh tại Tyumen, Siberia. Ông là một trong 8 người con của Moses (1848-1901) và Lena Lipkin Beilin (1850-1922). Cha ông, người điều khiển ban nhạc tại giáo đường, đã đưa cả gia đình đến Mỹ, giống như nhiều gia đình Do Thái khác đã làm như thế vào cuối thế kỷ 19. Ngày 14 tháng 9 năm 1893, gia đình ông đến Đảo Ellis tại Thành Phố New York. Gia đình rời lục địa cũ từ Antwerp trên tàu SS Rijnland từ Red Star Line.
Các nhà khảo cổ học đã khám phá cái đầu của hoàng đế La Mã Augustus bằng đá cẩm thạch tại thị trấn Isernia nằm trong vùng Molise của Ý, theo bản tin của Artnews cho biết hôm 3 tháng 5 năm 2021. Theo tường trình của báo Ý Il Giornale del Molise, sự phát hiện rọi ánh sáng mới lên ảnh hưởng của đế quốc La Mã trong khu vực.
Cô nói trong đêm Oscar ở Los Angeles: "Tôi đã luôn tìm thấy tính thiện trong mọi người tôi gặp, mọi nơi tôi đi trên thế giới (cầm tượng vàng lên) và giải này là giành cho mọi người có niềm tin và lòng can đảm để sống với tính thiện trong mình và người, bất kể gian nan cuộc đời thế nào. Và giải thưởng này là cho quý vị, chính quý vị là cảm hứng để tôi tiếp tục."
Bill Traylor đã có cuộc đời trọn vẹn trước khi ông được sinh ra như một nghệ sĩ. Khi sinh ra đời tại một đồn điền trồng bông ở Alabama vào năm 1853 ông đã là một nô lệ và đã sống cả đời như một nông dân trong bán kính 40 dặm của Montgomery, chỉ những năm 80 tuổi của cuộc đời, ông, vô gia cư và cô độc, ngồi một mình nơi ngả tư nhộn nhịp trong xóm người da đen biệt lập của thủ phủ tiểu bang và bắt đầu vẽ, theo báo The Guardian số ra ngày 15 tháng 4 năm 2021. Qua các mảnh giấy bìa cứng bị quăng bỏ - những nắp hộp kẹo, quảng cáo trên cửa sổ cũ – gợi lại những ký ức từ những ngày ở nông trại của ông và các cảnh quang của thành phố thay đổi nhanh chóng chung quanh ông. Hơn một ngàn tác phẩm nghệ thuật tối giản, ấn tượng chảy ra từ đôi tay của ông trong 3 năm từ 1939 tới 1942, một kho tàng phong phú chứa đựng phần quan trọng của những bức vẽ và bức tranh bởi một người nô lệ khi mới sinh ra đời.
Tuy từ nay chúng ta sẽ không còn được gặp cô, không còn được nghe trực tiếp “tiếng hát bay trên thành phố bâng khuâng” đã làm rung động lòng người nhạc sĩ năm nào, nhưng tôi chắc rằng chúng ta vẫn nhớ và yêu quý mãi giọng ca ấy, giọng ca thật xứng danh là giọng ca “vàng mười’.
Một ngày lái xe lang thang vùng Quận Cam, Nam Cali chợt thấy tên đường Saigon ở một khu dân cư của người Mỹ bản xứ thuộc thành phố Santa Ana, lòng chợt xúc động. Nên biết rằng ở khu phố gọi là Little Saigon Nam Cali, trên đường Bolsa thuộc thành phố Westiminster, có tên đường Saigon, nhưng thực ra không có số nhà và tên đường để bưu điện Hoa Kỳ gởi thư và phát thư; còn con đường Saigon thuộc thành phố Santa Ana này có số nhà bình thường như những con đường khác.
Chỉ với công trình “70 Năm Tình Ca trong âm nhạc Việt Nam”, Hoài Nam đã đủ để lại đời một món quà quý báu hiếm có cho những người yêu chuộng âm nhạc miền Nam nói riêng, và kho tàng văn hóa Việt Nam nói chung.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.