Hôm nay,  

Hội Thảo Sách Quan Âm Tế Độ: GS Nguyễn Văn Sâm Chú Giải

08/09/202222:40:00(Xem: 6107)

 

Hội Thảo Sách Quan Âm Tế Độ:

GS Nguyễn Văn Sâm Chú Giải

 

Nguyên Giác

 

Viện Việt Học tại trụ sở Westminster, California, hôm 3/9/2022 đã có buổi Hội thảo giới thiệu công trình chú giải sách Nôm nhan đề Quan Âm Tế Độ -- do GS Nguyễn Văn Sâm phiên âm và chú giải dựa vào bản khắc hơn một thế kỉ trước. Bản gốc là Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Kinh), theo bản khắc năm Mậu Thân 1908 năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh). Do Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hiền Tâm phiên âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ.

 

blank

Từ trái: GS Đỗ Quý Toàn, GS Trần Huy Bích, GS Nguyễn Văn Sâm

 

 

Mở đầu chương trình, MC là chị Nguyễn Kim Ngân, cũng là Giám Đốc Viện Việt Học, nói rằng sau hơn 2 năm Viện ngưng các buổi sinh hoạt đông người vì đại dịch COVID-19, bây giờ mở đầu các công trình là tác phẩm Quân Âm Tế Độ do GS Nguyễn Văn Sâm phiên âm và chú giải. Một điểm đặc biệt của chương trình sẽ là hiện diện của 2 vị Giáo sư uyên thâm khác -- GS Đỗ Quý Toàn và GS Trần Huy Bích -- sẽ nói chuyện về tác phẩm độc đáo này. Dự kiến GS Đỗ Quý Toàn sẽ giới thiệu tác phẩm Quan Âm Diệu Thiện (mà GS Nguyễn Văn Sâm đặt nhan đề Quan Âm Tế Độ), và GS Trần Huy Bích sẽ giới thiệu về đóng góp của GS Nguyễn Văn Sâm với việc bảo toàn văn học chữ Nôm. GS Trần Huy Bích được GS Đỗ Quý Toàn nhường nói trước, vì lý do nội dung của sách sẽ cần nói dài dòng hơn.

 

GS Trần Huy Bích nói rằng tiếng Việt bây giờ có chữ quốc ngữ rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ. Nhưng mỗi thế hệ, trong học giới cũng cần có một số học giả về chữ Nôm, có thể là 5% dân số Việt nên chuyên ngành về chữ Nôm để nắm được cái hồn của văn học xưa.

Thí dụ, câu thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều:

 

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa...

 

GS Trần Huy Bích nói rằng có một học giả nói rằng bản nguyên gốc của Nguyễn Du có lẽ là:

 

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trang điểm một vài bông hoa...

mà đời sau viết nhầm thành "Cành lê trắng điểm..."
 

Cuộc tranh luận kéo dài, cho tới khi có người tìm được bản chữ Nôm của Truyện Kiều, cho thấy cụ Nguyễn Du viết chữ Nôm là "Cành lê trắng điểm..." Tức là, màu trắng, chứ không phải chuyện làm đẹp.

 

GS Trần Huy Bích nói rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã rất công phu khi phiên âm và chú giải bản Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Kinh). Theo bản khắc năm Mậu Thân 1908 năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh). Phiên âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ là: Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hiền Tâm.

 

GS Trần Huy Bích nhận xét rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã có những chú giải rất cần thiết. Bởi vì, nếu, không có chú giải, chúng ta không hiểu được chữ của tiền nhân.

Thí dụ như câu 87-88:

Thiên Tôn Vô Cực tòa tiền

Từ Hàng quì gối phút liền tâu qua.

Chú giải rằng: Vô Cực Thiên Tôn theo dân gian Nam Bộ là Diêu Trì Kim Mẫu hay Tây Vương Mẫu, nhân vật truyền thuyết của Đạo Giáo. Còn Từ Hàng là hình ảnh Quan Âm Bồ Tát trong Phong Thần Diễn Nghĩa. Tức là trong tác phẩm, những niềm tin dân gian pha trộn nhau để thành tiểu thuyết chữ Nôm, như một phương tiện đem giáo lý nhà Phật tới cho người bình dân Nam Bộ.

Cái pha trộn đó cũng hiển lộ ở câu 100, 101:

 

Chỉ ư chí thiện tiền trình đâu riêng

Lập công phản bản, hoàn nguyên.

 

Nhóm chữ "Chỉ ư chí thiện" là từ sách Đại Học của Nho Giáo, trong khi "phản bản hoàn nguyên" là từ sách Thiên Thai Chỉ Quán của nhà Phật. Nếu không có chú giải sẽ khó nắm ý tác giả.

GS Trần Huy Bích cũng ca ngợi về chỗ chú giải câu thơ 909:

 

Hay đâu cứng cổ việc tu

 

Bản Nôm viết là "cheo" nhưng GS Nguyễn Văn Sâm nhận ra là in nhầm vì nên là chữ "hay" do cách viết 2 chữ rất gần nhau.

 

Tiếp theo là phần GS Đỗ Quý Toàn góp ý. nhận xét về Quan Âm Diệu Thiện. GS Toàn nói, sách này tuy là do 2 tín nữ Nguyễn Từ Ngươn và Hoàng Diệu Trước quyên tiền khắc in, nhưng nhà in hẳn là ở Trung Hoa, cho nên thợ khắc chữ người Trung Hoa không hiểu hết chữ Nôm, nên đã có vài chữ sai, như GS Trần Huy Bích đã nói. Bởi vì, có thể chưa có nhà in nào lớn tại miền Nam VN lúc đó.
 

Điểm cho thấy in ở Trung Hoa là, nơi đầu sách ghi là năm Quang Tự (nhà Thanh) thứ 34. Thêm nữa, lúc đó mấy ông thợ khắc Tàu ghi tên nước Việt cũng sai, qua câu nơi trang đầu sách:

"Hai tín nữ nước Đại An Nam quyên tiền, kính khắc in: Nguyễn Từ Ngươn, Hoàng Diệu Trước."

GS Toàn nói, sách Quan Âm Diệu Thiện khác với sách Quan Âm Thị Kính, một phần cũng vì truyện Quan Âm Thị Kính được các nghệ sĩ Việt Nam soạn thành tuồng, thành chèo, thành kịch nên mức độ phổ biến tăng. GS Đỗ Quý Toàn nói, tác giả Quan Âm Thị Kính là cụ Đỗ Dự, ông tổ 4 đời của GS Toàn.

 

GS Đỗ Quý Toàn nói rằng tác giả Quan Âm Diệu Thiện hẳn là một người miền Bắc di cư vào Nam, vì văn phong còn ảnh hưởng giọng Bắc. Thí dụ, trong bản Nôm viết là "rửa bát" như người Bắc, chứ không viết "rửa chén" như người Nam. Tương tự, vài chữ khác trong sách Quan Âm Diệu Thiện. Thêm nữa, sách này không thấy ảnh hưởng Lục Vân Tiên, trong khi Lục Vân Tiên trước đó ở miền Nam đã được ngâm nga phổ biến rộng rãi.

GS Đỗ Quý Toàn nói rằng tác phẩm Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ) là viết để tuyên truyền cho Phật Giáo. Cô bé nhân vật chính từ bé đã ăn chay, mới 13 tuổi đã dạy cho bố mẹ rằng  cô bé không muốn dính chuyện lấy chồng như đời thường (cô bé trong truyện ghi là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm xuống cõi trần để hoằng pháp). Cô chỉ chính thức thọ giới năm 15 tuổi là khi gặp Đức Phật Nhiên Đăng (một vị Cổ Phật trước cả Đức Phật Thích Ca) bay tới dạy pháp cho cô.

GS Đỗ Quý Toàn nói rằng sách Quan Âm Diệu Thiện rao giảng Đạo Phật bằng ngôn ngữ Đạo Nho.  Thí dụ, như mượn câu "Chỉ ư chí thiện" trong sách Đại Học của Nho Giáo để nói về tâm cực thiện. Tiểu thuyết này là giả tưởng, chủ yếu viết cho gay cấn, nên có những chi tiết không thể có trong đời thực, như chuyện 500 nhà sư tuân lệnh vua tới thuyết phục công chúa hãy lấy chồng, hay là hình ảnh công chúa giảng về giáo lý nhà Phật cho các vị sư Chùa Bạch Tước.

 

Khi GS Đỗ Quý Toàn nói xong, GS Trần Huy Bích xin lên đọc một đoạn trong bài giới thiệu của Cư sĩ Huỳnh Kim Quang, nơi trang 18, trích: “Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm là một trong số hiếm hoi các học giả có thẩm quyền về chữ Hán-Nôm của Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay đã nỗ lực không ngừng để chạy đua với tuổi già sức yếu mà hoản thành việc phiên âm sang chữ quốc ngữ nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm.”

 

Tiếp theo, MC Kim Ngân giới thiệu chị Phan Dụy, cựu sinh viên Văn Khoa Sài Gòn trước 1975, có bài “Thầy Tôi” viết về GS Nguyễn Văn Sâm. Bài chị Phan Dụy đọc trich như sau:

 

Thầy Tôi, thầy Nguyễn Văn Sâm

Kính thưa quý bậc trưởng thượng, quý học giả, quý quan khách, và ban tổ chức,

Thật là một niềm Hạnh Phúc hiếm quý, được tham dự buổi ra mắt sách của Thầy Tôi, trước một cử tọa chọn lọc và ít nhiều cũng cùng chung một niềm thao thức là quý trọng và âu lo cho sự sinh tồn của chữ nghĩa tiếng Việt nói riêng và Văn Hóa Việt Nam nói chung.

Trên cương vị là một người học trò, chúng tôi không dám và chắc chắn là không đủ khả năng, để bàn về, phân tích, hay có ý kiến về cuốn sách mà quý vị đang hay sẽ có trong tay hôm nay. Vì đây là điều mà chính cá nhân chúng tôi cũng đang háo hức mong đợi để được nghe từ quý vị thức giả trong hội trường này. Trên cương vị là một người học trò, mỗi khi nhận được sách Thầy cho, chúng tôi nhận lấy như đứa con nhận những món ăn từ cha mẹ kèm theo lời khuyên:   “ rán ăn cho mau lớn”.

Nếu trên đường đời, dù lớn tuổi bao nhiêu chúng ta cũng vẫn thấy mình bé bỏng trước tình thương của cha mẹ, thì trên đường trường dù thành đạt bao nhiêu, chúng ta cũng cảm thấy nhỏ nhoi trước kiến thức, công lao dạy dỗ và một hoài bão to lớn mà các vị thầy cô đã chăm chút, gởi gắm cho từng đứa học trò. Và mỗi người học trò có những kỷ niệm cá biệt với một số thầy cô.

Với chúng tôi, khi vào ngưỡng cửa đại học, 3 vị thầy đã cấy lên 3 yếu tố góp phần quan trọng  trong tiến trình định hướng thành nhân của tôi, Thầy Lê Hũu Mục dạy tôi phải giữ tinh thần lạc quan tươi vui sẵn sàn đón nhận mọi thử thách của cuộc đời, Thầy Đặng Phùng Quân, dạy tôi, học triết không phải chỉ để suy tư mông lung, hay để khoe mẻ, mà là biết để chọn cho mình một lối sống. Với thầy Nguyễn Văn Sâm, không bằng những lời răn đe hay lý thuyết từ sách vở, mà bằng cuộc đời chân thật hiền hòa, đầy nhân ái, một tinh thần thoải mái và một tấm lòng rộng mở đối với học trò cũng như với mọi người như những cánh đồng ruộng lúa thẳng cánh cò bay miền Tây. Nhưng bên cạnh những êm ả của đồng lúa là niềm thao thức cuồn cuộn đến say mê trong sứ mạng bảo tồn và phát huy chữ nghĩa và văn hóa Việt Nam. Niềm thao thức cuồn cuộn đến say mê, vì thời gian không đứng đợi, như nước sông Cữu Long ngày nay đã dần dà khô cạn vì không tránh được ảnh hưởng của thời cuộc và hoàn cảnh của môi sinh. Thầy đã dạy tôi, sống hết lòng và sống với một mục đích và biết đam mê cho mục đích đó!

Phải thú thật, nếu không có cuộc đổi đời, làm sao tôi có thể quen biết được một vị giáo sư vốn là một dân biểu của thời Đệ Nhất Cộng Hòa, được tiếp tục nghe vị giáo sư dày kinh nghiệm khảo cưu viết sách, giảng dạy về văn chương chữ nghĩa và kinh nghiệm sống ở đời không phải ở giảng đường hay trong sân trường đại học mà là trong những bữa cơm gia đình, trong những ngày tháng đầu đời của cuộc đời tỵ nạn tha hương!

Nói về Thầy tôi, không thể không tỏ lòng cảm mến, biết ơn và cảm phục cô Ngọc Ánh, người phụ nữ này nếu không là con cháu của Bà Trưng Bà Triệu, thì cũng là đồng đội tâm huyết của Cô Giang Cô Bắc. Cá nhân chúng tôi, cô Ngọc Ánh, là người phụ nữ chịu:đứng mũi chịu sào” cho chuyến đò dọc, chở Thầy tôi, và sự nghiệp của người đã dày công xây dựng suốt cả một đời người, kể từ tác phẩm “Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam” năm 1969, cho đến ngày nay, một gia tài kếch sù về bộ môn biên khảo đặc biệt về Chữ Nôm và Chữ Hán, mà tôi có thể rất tự hào thiên vị-chủ quan để nói rằng khó có ai sánh kịp, đó là chưa kể những tác phẩm sáng tác, tập truyện, thơ, bày tỏ tình cảm nổi lòng của mình cũng như nói dùm cho kiếp nhân sinh trong những “Ngày Tháng Bồng Bềnh”.

Ca dao người Huế có câu: “Đói lòng ăn nữa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương”, tôi có cảm tưởng đó là hình ảnh của thầy tôi, thầy Nguyễn Văn Sâm với người tình Văn Hóa VN, trong đam mê biên khảo, trong niềm trân quý, trang trọng, yêu mến gốc gác, cội nguồn kho tàng văn hóa đặc thù của Việt Nam. Thầy tôi đã có những chuyến đi thật xa qua tuốt bên trời Tây, “la lết” nhiều ngày trong thư viện của nước Pháp để tìm tài liệu. Thầy Tôi, cũng đã lặn lội về bên trời Á để “bới móc” tìm toài những tài liệu đã bị dập vùi bởi thời cuộc và bởi sự thờ ơ của người đương thời.

Nếu người đương thời thờ ơ, xem nhẹ đến giá trị chữ nghĩa văn chương, văn hóa VN, thì tại sao Thầy tôi phải khổ công sống với niềm thao thức tim kiếm xây dựng đó? Người trồng cây ăn quả, không chỉ làm đẹp cho khung cảnh hiện tại, mà mục đích là mong thế hệ về sau được hưởng những đơm hoa kết trái, vì chính Thầy tôi cũng đã ân sủng nhận được những kho tàng tài lệu quý giá người xưa để lại.

Cuối cùng, trong sự nghiệp sáng tác, biên khảo, trong tiến trình đóng góp để gìn giữ Văn Hóa Việt nam cho đời sau của Thầy Tôi, sẽ không sao thành công được nếu không có sự nâng đỡ của các cơ quan tổ chức như Viện Việt Học, sẽ không thành hình được nếu không có sự hổ trợ vô điều kiện và chăm sóc của người bạn đời Ngọc Ánh, sẽ không có cơ hội trình làng để được khôn lớn, nếu không có những vòng tay rộng mở, đón tiếp của ánh mặt trời độc giả, như quý vị trong hội trường ấm cúng này.

Do đó, là người thuộc thế hệ sau, là người được thừa hưởng công trình của người đi trước, là cương vị một học trò, chúng tôi xin chân thành cảm tạ Viện Việt Học, cô Ngọc Ánh và nhất là quý bằng hữu, quý độc giả đã tiếp tay, thương mến, yểm trợ Thầy Tôi Thầy Nguyễn Văn Sâm trong sự nghiệp bồi đắp Văn Hóa Việt Nam. Kính cảm tạ!

 

Tiếp theo, GS Nguyễn Văn Sâm được MC Kim Ngân mời lên. GS Sâm đã cảm ơn GS Đỗ Quý Toàn và GS Trần Huy Bích, và nói rằng cô Phan Dụy vừa khen quá lời. GS Nguyễn Văn Sâm nói rằng GS nhận được bản Nôm từ một cơ duyên lạ, cho nên tự thấy “tôi phải phiên âm và chú giải, vì nếu tôi không in ra thì không ai biết có bản Nôm này.” Trong khi tác giả gửi gấm tấm lòng trong bản Nôm, đáp ứng đúng niềm tin dân gian, khi cho Công chùa Diệu Thiện tu thành chánh quả rồi xuống địa ngục để độ cho thân phụ. GS Nguyễn Văn Sâm cũng cảm ơn Cư sĩ Huỳnh Kim Quang đã viết Lời Tựa cho sách Quan Âm Tế Độ đã phân tích nhiều về Phật học trong truyện. GS Nguyễn Văn Sâm nói, “Tâm tình của tôi là chú ý tới văn hóa, tới bản văn cần lưu truyền để tạo ra động cơ cho đời sau sẽ nghiên cứu, chứ không tập trung chú ý tới nội dung. Chủ yếu là chính xác, rồi sẽ có nhiều cuốn khác nữa.

 

GS Nguyễn Văn Sâm kể tiếp: “Khi tôi vượt biên lần thứ nhì, máy ghe chết. Chủ ghe nói, ai có đạo gì thì cầu nguyện xin cứu nha. Lúc đó tôi xin Phật Bà cứu chiếc ghe vượt biên thoát. Tôi chết cũng được, 39 tuổi rồi, nhưng tội nghiệp những người khác, đàn bà, con nít trên ghe. Nhiều tiếng đồng hồ sau, chủ ghe tìm ra lỗ hổng của ghe để lấy áo quần vo lại, nhét vào để nước không tràn vào ghe. Sách truyện có 2 tiểu thuyết cho 2 nhân vật: Quan Âm Diệu Thiện và Quan Âm Thị Kính, nhưng Quan Âm Thị Kính gần đời thường hơn, phổ sang làm cải lương, hát bội nên đồng bào biết nhiều hơn. Còn Quan Âm Diệu Thiện chưa được biết nhiều.”

 

Tiếp theo, GS Tôn Thất Côn thay mặt nhóm biên tập thế hệ “48-55 Khải Định” đã trao tặng bộ sưu tập 25 năm với mỗi năm một ấn bản, từ năm 1996 đến năm 2000, do nhà văn Ngự Thuyết Tôn Thất Ngự chủ biên và nhiều học giả khác góp bài. GS Nguyễn Văn Sâm đã thay mặt Viện Việt Học nhận bộ sưu tập Khải Định để lưu trữ làm tài liệu.

 

blank

Từ trái: GS Nguyễn Văn Sâm thay mặt Viện Việt Học nhận bộ sưu tập Khải Định từ GS Tôn Thất Côn. Chị Nguyễn Kim Ngân, Giám Đốc Viện Việt Học.

 

 

Trong phần văn nghệ, MC là chị Diệu Trang, giới thiệu các ca sĩ Thu Vàng, Kim Phương và Đạo Tâm trình diễn xuất sắc nhiều ca khúc.

 

Trường hợp độc giả muốn tìm mua sách Quan Âm Tế Độ, có thể liên lạc với:

GS Nguyễn Văn Sâm

[email protected]

Hoặc trả tiền qua Zelle:

714-332-9086

 

blank

Văn nghệ, từ trái: Diệu Trang, Thu Vàng, Kim Phương, Đạo Tâm

 

Tham dự trong buổi hội thảo có nhiều học giả và văn nghệ sĩ, như GS Nguyễn Trung Quân, nhạc sĩ Võ Tá Hân, các nhà văn Lê Lạc Giao, Tô Đăng Khoa, Phan Tấn Hải…

 

Đặc biệt, hai ngày sau buổi hội thảo, GS Nguyễn Văn Sâm có ghi trên trang Facebook cho biết chương trình làm việc:

“Trong buổi Mạn Đàm về cuốn sách Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Ca, ngày 03 tháng 09 vừa qua có một vài vị lớn tuổi hỏi tôi vậy chớ có còn tác phẩm Nôm Phật giáo nào sẽ ra mắt công chúng hay không, tôi đã trả lời là trong quá khứ về mặt nầy tôi đã in vài ba cuốn như:

1. Trương Ngáo hay Người đi Đòi Nợ Phật, 2008

2. Tội Vợ Vợ Chịu 2010

3.. Hứa Sử Truyện, tức Tỉnh Mê Một Cõi , 2015

Trong tương lai gần nếu hoàn cảnh thuận lợi  tôi sẽ cho in các  thơ Nôm:

1. Quan Âm Thị Kính (thơ 6/8)

2. Lưu Hương Bảo Quyển (thơ 6/8)

3.  Du địa Ngục  (tuồng, quốc ngữ)

Xin giới thiệu trước một đoạn ngắn  tức 10 điều răn của nhân vật Lưu Hương trong cuốn Lưu Hương Bửu quyển:

«Một là tin tưởng Phật trời

Thờ cha kính mẹ hiếu thời vi tiên

Hai là tu đức hồi thiên

Từ bi nhẫn nhục cố kiên tinh thần

Ba là rượu thịt chớ gần

Ăn chay niệm Phật ân cần thiện vi

Bốn là sắc dục đọan ly

Trừng tâm thanh tịnh lễ nghi vẹn tòan

Năm là hòa thuận xóm làng

Bần dân ân xá bạc vàng đừng tham

Sáu là tu tạo chùa am

Ngân tiền bố thí chớ cam một mình

Bảy là an dưỡng tín thành

Đê tâm hạ khí từ thìn nết na

Tám là chớ nói sai ngoa

Cố ngôn cố hạnh gần xa yên vì

Chín là lập chí tu trì

Kiên tâm luận đạo thần kỳ kính khâm

Mười là chẳng đặng tà dâm

Sát sanh hại vật sắc âm chớ gần.»

 

Xin trân trọng biết ơn GS Nguyễn Văn Sâm. Tuổi của Giáo sư mấp mé 90 rồi, nhưng Giáo sư vẫn ra sức làm việc liên tục để bảo toàn nền văn học chữ Nôm đang có cơ nguy biến mất. Xin trân trọng biết ơn.

.

 

blank

Từ phải: cô Phan Dụy, GS Trần Huy Bích, GS Nguyễn Văn Sâm và phu nhân là nhà văn Trần Ngọc Ánh.

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Đan Thọ qua đời ngày 4 tháng Chín năm 2023, thành phố Houston, Texas, hưởng đại thọ 99 tuổi. An giấc nghìn thu ngày 18 tháng Chín, tại Nhà Quàn Vĩnh Cửu (Chapel of Eternal Peace at Forest Park), Houston, Texas. Với tuổi ta, nhạc sĩ được bách niên (100 tuổi) tuổi hạc đại thượng thọ trên cõi trần...
Vào giữa thập niên 1980s, phổ biến trong nước Triệu Đóa Hoa Hồng, tuy là bản nhạc trữ tình với mối tình dang dở nhưng lời Việt, nhạc Liên Xô nên tôi bị “dị ứng” nên chẳng để ý, dù sau nầy với ca sĩ hải ngoại…
Chúng ta không biết phải dịch chữ “immersive art” như thế nào. Khái niệm này chỉ mới xuất hiện vài năm nay, mặc dù đã xuất hiện, phần nào, trong các loại hình nghệ thuật khác, từ cả nhiều thế kỷ trước. Hình như triển lãm “immersive art” lần đầu tiên ở Los Angeles và Las Vegas là đầu năm 2022, với tranh Van Gogh. Phòng triển lảm sử dụng hình ảnh, âm thanh, không gian, sự chuyển động của màu sắc để làm cho bạn, người khán giả, trở thành một người đang tắm gội trong không gian nghệ thuật của họa sĩ Van Gogh (1853-1890). Tại sao chọn Van Gogh để triển lãm đầu tiên cũng chưa rõ, có lẽ vì tranh họa sĩ này sống động, dữ dội hơn nhiều họa sĩ khác, hấp dẫn hơn với dân Nam California. Có thể dịch chữ “immersive art” là hội họa “trải nghiệm hòa nhập” hay “trải nghiệm nhập vai” – bởi vì, khán giả tự thấy mình trở thành một phần của tác phầm đang chuyển động giữa thế giới màu sắc của họa sĩ.
“Đẹp là gì?” Người đầu tiên chính thức đặt ra câu hỏi căn bản này có lẽ là Socrates (469-399 TCN), và chính ông đã trả lời: “Đẹp là cái thích thú do tai nghe mắt thấy”. Plato (427—347 TCN) cho rằng “Vẻ đẹp là hình ảnh nhất quán và không thể thay đổi của những điều tốt nhất, tinh tế nhất.” Ông cũng là người đầu tiên đưa ra một nền tảng siêu hình về cái đẹp: không dừng lại ở cái đẹp hữu hình, mà đi tìm những giá trị siêu cao vô hình. Theo Immanuel Kant (1724-1804), vẻ đẹp là sự hài hòa giữa hình dáng và nội dung, là thứ khiến chúng ta cảm nhận sự tinh tế và thỏa mãn. Kant cho rằng cái đẹp gồm hai cảm nhận: cảm quan về sự cao cả và cảm quan về thẩm mỹ. Trong cả hai trường hợp, sự xúc động đều gây thích thú nhưng theo hai cách khác nhau: ý nghĩa cao cả khiến trái tim cảm động, còn mỹ thuật làm say mê trí óc của cặp mắt. Với tôn giáo thì vẻ đẹp còn liên quan đến niềm tin.
Ales Pushkin là một họa sĩ độc đáo. Anh là người đã yêu đất nước Belarus nồng nàn, tới mức nhiều lần đứng ra biểu tình đòi cho Belarus gia nhập NATO khi nhìn thấy Nga chiếm vùng Crimea của Ukraine, đã vẽ nhiều họa phẩm chống Tổng Thống Nga Vladimir Putin, bất kể có những cuộc biểu tình chỉ có đơn độc một mình anh ra phố đứng. Anh cũng là người yêu thương Ky tô giáo nồng nàn, đã thực hiện những tác phẩm trang trí nhà thờ, và sau khi nhiều lần vào tù, ra khám anh tâm sự với bạn hữu rằng đời anh chỉ sợ duy nhất có Chúa Trời. Bây giờ, Ales Pushkin (1965 - 2023) đã từ trần trong nhà tù Belarus. Bản tin hôm 12/7/2023 của AP ghi rằng, Ales Pushkin, một họa sĩ và là một nhà hoạt động chính trị người Belarus, người thường xuyên chỉ trích vị Tổng thống độc tài Alexander Lukashenko, đã chết trong tù hôm thứ Ba 11/7/2023 khi đang thọ án 5 năm.
Nhạc sĩ Trần Lê Việt, tác giả của bản nhạc tù quen thuộc, được mọi người nhắc đến, nghe lại vào các dịp kỷ niệm 30 tháng 4 hằng năm: Tháng Tư Đen (hay còn được nhớ nhất với cái tên Tháng Tư 29 ngày 31 đêm) trong dịp sinh nhật thứ 72 đã “được” ngồi xe lăn đi chầm chậm về phía cuối đường (đời). Chàng lãng tử với cây đàn nay không còn có thể “lãng tử” được nữa, dù cây đàn vẫn còn đó, vẫn còn là niềm vui của mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây chàng không phải đánh vật với bệnh tật...
Câu chuyện bắt đầu, một người kể: “Sở dĩ con kên kên sói đầu vì nó ăn mít. Nó đút đầu vào ruột trái mít đục khoét. Mủ mít dính chặt lông. Khi rút đầu ra, lông dính lại. Đầu trọc lóc.” Người thứ hai lên tiếng: “Nói vô lý. Kên kên ăn xác chết, ăn đồ hôi thúi. Mít có mùi thơm. Kên kên không ăn đồ thơm.” Người thứ nhất trả lời: “Nói có lý nhưng xét ra vô lý. Kên kên không ăn mít thường nhưng ăn Sầu riêng. Mít Sầu riêng hôi lắm.” “Nói vô lý. Sầu riêng thơm kiểu khác. Cả triệu người ăn. Cả triệu người ghiền. Điên hay sao mà ăn đồ hôi.” “Bà thấy thơm nhưng tui thấy hôi. Quyền tự do mà. Cả triệu người không ăn Sầu riêng. Cả triệu người thấy Sầu riêng hôi.” “Nói tào lao. Hoa thì thơm. Phân thì hôi. Ai có thể ngửi thấy hầm lù thơm?” “Có thể hôi thúi, nhưng ở đó lâu ngày, quen đi. Thúi cũng như thơm. Giống những người ở xung quanh Kinh Nước Đen.”
Trước sự hâm mộ cuồng nhiệt nhưng không mấy ngạc nhiên, bức chân dung cuối cùng được vẽ bởi họa sĩ Gustav Klimt đã được bán hôm nay với giá bán đấu giá kỷ lục ở châu Âu, 85.3 triệu bảng Anh (tính luôn cả lệ phí giao dịch) tại buổi bán đấu giá nghệ thuật của Sotheby's ở London chiều 27 tháng 6, tờ báo nghệ thuật The Art Newspaper đưa tin.
Cuộc cách mạng không tiếng súng của phong trào dân chủ Thái Lan đã thành công trong cuộc bầu cử giữa tháng 5/2023, với phiếu của giới trẻ và những người có tinh thần dân chủ đã vượt xa phiếu của những người thân chính quyên quân sự. Một trong những người dẫn đầu phong trào đòi thay đổi thể chế, đòi giảm vai trò chính trị của quân đội, đòi xét lại một đạo luật gây tranh cãi chống lại việc xúc phạm chế độ quân chủ… là doanh nhân trẻ Pita Limjaroenrat (sinh năm 1980), từng du học tại Hoa Kỳ và bây giờ là lãnh đạo Đảng Move Forward (Đảng Tiến Lên). Với liên minh nhiều đảng, Pita dự kiến sẽ là Thủ Tướng tương lai, nếu chính quyền quân đội Thái Lan không tìm được cớ gì để cản trở nữa. Nhưng bây giờ, Pita đang bị điều tra về thủ tục. Ủy ban bầu cử Thái Lan đang xem xét liệu Pita có cố ý không đủ tư cách để ghi danh ứng cử viên quốc hội hay không, bởi vì Pita có sở hữu cổ phần trong một công ty truyền thông, vốn là bị cấm theo quy tắc bầu cử.
Trên Việt Báo cách đây mấy tuần có đăng bài viết so sánh hai ca khúc Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài (Phạm Duy) và Cô Hàng Xóm (Lê Minh Bằng), làm nhóm bạn mê nhạc bolero của tôi phấn chấn quá! Có người nói rằng còn nhiều trường hợp nữa để chứng minh rằng nhạc sến phổ biến hơn nhạc Phạm Duy. Một so sánh khác nữa về hai bài nhạc, một Phạm Duy- một bolero, còn thú vị hơn nữa, đó là Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà của Phạm Duy và Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh. Lời đề nghị này có lý! Bởi vì cả hai đều là ca khúc phổ từ cùng một bài thơ Màu Tím Hoa Sim của cố thi sĩ Hữu Loan. Và cả hai bài đều thuộc những ca khúc phổ biến vào bậc nhất của dòng nhạc bolero và nhạc Phạm Duy thời Miền Nam trước 1975.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.