Hôm nay,  

Đọc "Những Đóa Hoa Tật Nguyền" Của Như Không

03/12/202114:52:00(Xem: 3253)
blank

 

ĐỌC "NHỮNG ĐÓA HOA TẬT NGUYỀN" CỦA NHƯ KHÔNG
 

phan ni tấn

 

Như Không? Bút hiệu này gợi cho tôi liên tưởng ngay đến ngôn từ  Bát Nhã của nhà Phật. "Sắc bất dị Không. Không bất dị Sắc". Giản dị mà nói: "Có tức là Không. Không tức là Có". Đứng trước cái có, cái không, như không, như có, nhà thơ Như Không đã thể hiện tinh thần Bát Nhã Ba La Mật một cách khá rõ nét:
 

Mắt không muốn nhìn thì tai không nghe

Đầu không nghĩ tới

Tướng và sắc không cần phải hỏi

Mây khắp bốn trời

Ngửa bàn tay còn không thấy ngón

Người không hiểu

Ta càng không hiểu

Mãn thiên hoa vũ

Trước cũng không

Sau vẫn là không!

--- Không, tr. 77

  

Một kiểu công án Thiền tân thời mang hình thức lung linh biểu tượng. Người có tâm thiền thường mượn thơ để buông bỏ tất cả, dứt trừ hết khổ ách, chân thực không hư thì sá gì mất hay còn hoăc Mất Và Còn:

  

Đến không phải là có

Đi không phải là mất

Chằng chịt bao duyên nghiệp

Cõi tạm là sắc không

  

Còn. Không giữ

Mất. Không tiếc

Duyên còn thì còn nhau

Mất. Cần gì phải biết

  

Chẳng hiểu Thiền là gì

Sao lòng như đã Phật?

--- tr. 96

  

Lục bát Thiền của Như Không cũng dạt dào, sinh động, một sức sống tỉnh thức giữa thực tại và mông muội, giữa Sắc và Không:

  

Thoát thai

Từ cuộc hồng hoang

Hạt mầm mông muội

Bay ngang cõi này

  

Vô sắc tướng

Không hình hài

Chẳng từng vô thủy

Cõi ngoài hư không

  

Sắc không

Trôi giữa vô cùng

Buông thôi!

Gọi tiếng thinh không

Trở về

 --- Buông, tr. 102

  

Trở lại trang đầu tập thơ Những Đóa Hoa Tật Nguyền, người đọc nhận thấy ở lứa tuổi của thập niên 1950 nhiều văn nghệ sĩ đã khoát áo nhà binh trong đó có nhà thơ Như Không. Ngay từ bài thơ đầu tiên và rải rác qua những trang thơ, cho thấy tác giả Như Không từng đi lính. Nhưng không phải lính làng, lính lệ mà là lính thứ dữ: Nhảy Dù.  

  

Trong suốt ba mươi năm chiến tranh diễn ra giữa hai miền Nam Bắc, Nhảy Dù là một trong những binh chủng xuất sắc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từng gây sợ hãi và tạo nhiều thương vong cho địch quân. Các bạn tôi, những Đàm, Minh, Ngôn, Út… là những chiến sĩ Dù dũng cảm may mắn còn sống sót sau chiến tranh, trừ người bạn học ngày xưa Nguyễn Thành Được, trung úy Pháo Binh Dù đã vì nước hy sinh.

  

Con cá cần nước để sống, người và thú gần gũi như bạn thì súng đạn chẳng khác nào là bạn của lính. Ngoài mặt trận, súng ống, lưỡi lê, đạn dược, những vật thể vô tri không có mắt mà chí thiết này thật vô cùng hữu dụng. Nó là bạn, là anh em, đồng đội, thậm chí là người tình. Có điều lính thường thì không nói làm gì; còn lính mà dính tới văn chương chữ nghĩa thơ thẩn dàn trời như Như Không thì chữ thơ lại trở thành một loại vũ khí sắc bén đúc bằng chữ có khả năng bắn thẳng vào tâm hồn bạn đọc. Bài Ký Ức Của Một Người Lính là một thí dụ:  

   
Đồi núi Dakto nằm mấy tháng

Da mướt xanh như sắc lá rừng

Chong súng trong hầm chịu pháo bắn

Nghe tiếng depart lạnh sống lưng

  

Pháo rớt nơi nào đâu biết được

Đồi cao co cụm cả trăm người

Cơn bão thép trùm lên bốn hướng

Coi như ngày mới đẻ… đứt nôi

Đêm qua trúng pháo hầm banh nóc

Ghìm súng dưới hào nghe đạn reo

Chết mấy mạng. Thân ta bầm dập

Lên trực thăng cơn sốt rét về theo…

  

Cũng bài thơ trên, poncho dùng để che mưa che nắng đồng thời cũng để bộc thay người lính ngã xuống:

  
Ta bỏ lại sau lưng chiến địa

Ngổn ngang như có đá trong lòng

Poncho gói xác bao người chết

Cao điểm rồi đây giữ được không?...

  

Thơ Như Không sặc mùi chiến chinh, mùi lính, mùi lửa đạn, mùi máu anh em đầm đìa đến nỗi ngay cả căn cứ hỏa lực Thiện Ngôn được bao bọc toàn kẽm gai, mìn bẫy, và gió hú, nơi nhảy dù Như Không trấn đóng, mai vàng cũng không dám nở giữa mùa Xuân chinh chiến:

  

Đồn anh ở bây giờ

Mai vàng không dám nở

Máu lửa ngày chiến chinh

Phải đâu là chỗ trọ?

Em làm sao đến thăm

Kẽm gai giăng đầu ngõ

Đường đi chôn đầy mìn

Và từng đêm súng nổ

Đêm nay đêm hưu chiến

Súng vẫn ghìm trên tay

Đã từng đêm hưu chiến

Rụng rơi nhiều mạng người

Máu anh em đã đổ

Triền miên máu da vàng

Máu anh em vẫn đổ

Đầm đìa máu Việt Nam…

   --- Những Đêm Hưu Chiến, tr.60-61

  
Cũng cần nói thêm, trong chiến tranh Việt Nam, ngoài các căn cứ hỏa lực nổi tiếng như Pleime, Benhet, Delta, Dakto, Tân Cảnh, Hạ Lào, thì căn cứ hỏa lực Thiện Ngôn, tuy ít được biết đến nhưng cũng là một trong những cứ điểm chiến lược khá quan trọng nằm trên Quốc lộ 22 cách Tây Ninh khoảng 33 km về phía Tây Bắc và cách Katum khoảng 20 km phía Tây Nam. Nơi đây, năm 1968 từng xảy ra nhiều cuộc chiến ác liệt.

  

Lính chiến là lính ở sa trường nhiều hơn ở thành phố. Ở lâu ngoài mặt trận, từ quan đến quân, lính nào cũng có mùi rừng, mùi khét, tóc râu thì lởm chởm như lũ cô hồn sống. Nhưng cứ lao mình trong hòn tên mũi đạn riết cũng có ngày lính trở về thành phố, về dưỡng quân hay về ba ngày phép rồi lại ra trận. Ta đọc ở đây bài thơ Mai Lại Về Rừng, tr. 110, để cảm thương cho thân phận người lính tác chiến:

  

Vào quán nón sắt vất trong góc

Quân từ xa về còn mùi rừng

Cánh tay rướm máu gai cào xước

Tóc râu lởm chởm lũ cô hồn

  

Đôi giày trận lắm lem bùn đất

Bao ngày mưa gió tím môi thâm

Ta về phố tóc vương mùi khét

Nhớ lửa rừng xa dội tiếng bom

  

Hà cớ tiếc đời qua chén rượu

Lòng như cơn gió thoảng bên trời

Ta ngồi bên phố nghe rừng gọi

Mịt mịt đồi xa những xác người

  

Bia nốc chục chai như nước lạnh

Thương ngày khô khốc giữa rừng sâu

Đoàn quân khát nước đi le lưỡi

Đêm mịt mùng không ánh hỏa châu

   

Mắc võng khuya nằm nghe pháo bắn

Cú rúc mơ hồ trong bóng sương

Bốn phía đại ngàn cơn gió hú

Tiếng mưa rơi giấc ngủ chập chờn

   

Mai biết chừng đâu ta bỏ mạng

Dưới đáy hố bom, giữa xó rừng

Cũng có thể xác thân nằm lại

Rừng già vất vưởng một vong linh…

   

Thi ca là nghệ thuật của ngòi viết có tri thức. Thoát ra ngoài chinh chiến điêu linh, người đọc lại thấy nhà thơ Như Không an nhiên tự tại lặn lội vào đời không cặm bẫy, đạn bom, vượt qua mọi giả hình, giả cảnh  để sống thực cho mình và cho đời. Người có tâm thì thơ mới sống thực, ý thơ mới phơi phới trên từng hình tượng, âm thanh và ngôn ngữ.

  

Những Đóa Hoa Tật Nguyền, ngoài ngôn ngữ mênh mông hạnh phúc lẫn khổ ải trần gian, cũng như về hình tượng được tác giả mượn lịch sử để miêu tả và hào hứng diễn xuất bằng tiểu thuyết võ hiệp, thì âm thanh trong thơ Như Không cũng rạt rào vọng âm không kém.

  

Thật vậy, động từ trong thơ Như Không "động" một cách bình dị, nhưng tình tứ và thơ mộng. Mùa Xuân là mùa rất động, thường làm rộn cõi người, làm ngây ngất em, nhưng không may lại làm "héo" đi cõi lòng người thơ :

                

Lòng như cũng héo thêm đôi chút

Cuối mày chi chit vết chân chim

Ta quá cũ chẳng thể nào nói nỗi

Lắc đầu nhìn ta mà Xuân nín thinh

   --- Chút Xuân Còn Lại, tr. 22

   

Ở đời cái gì đã héo mà không rụng không rơi. Ngay cả tình yêu Những Giấc Mơ Hình Cầu cũng vậy, tiếng rơi thật đẹp:

  

Anh rơi vào em như dòng sông lặng

Đã yên bình chảy suốt mấy mươi năm

Em rơi vào anh. Chiều rơi định mệnh

Hòa tan nhau. Trong suốt đến vô ngần!

   --- (tr. 131)

   

Thơ là nơi trú ngụ của ký ức người. Là nơi chữ nghĩa được trải ra mà thành nghệ thuật thi ca. Chiến tranh trong thơ Như Không toàn thây người máu đổ thịt rơi, còn cảnh đời thì như ma trận không làm sao đương cự nỗi cái cơ cực, đắng cay trước cửa tử cửa sinh. May thay, Những Đóa Hoa Tật Nguyền có chân dung đa sắc, đa dạng, có hạnh phúc, có môi cười, có tình đời của hai người nắn tình yêu thành những tiếng động thật dễ thuơng:

  

Bên đời tôi róc rách em

Nửa hư nửa thật. Giữa đêm ngỡ ngày

Bên đời em róc rách tôi

Nghe như tiếng vọng cuối trời xa xôi

Giữa đời róc rách từng đôi

Róc ra róc rách… chảy hoài đời nhau.

   --- Róc Rách, tr. 34

  

Bài thơ Chiếc Cầu Chữ Y, tr. 124 cũng dễ thương không kém; cầu mang hình thức của chữ "Yêu" tuy chia ba ngả phù vân, song tình bất tử:

  

Chiếc cầu hình chữ Y

Chữ "Yêu" cũng bắt đầu như vậy

Em đứng giữa ngả ba cầu, lưỡng lự

Sông chảy đôi dòng

Tình chia bao nhánh

Một đời người biết mấy nẻo phù vân?

   

Ta đều biết ở Sài Gòn cầu chữ Y nằm từ đường Nguyễn Biểu bắt qua kinh Tàu Hủ và kinh Đôi nối liền quận 5 và quận 8, có ba nhánh tạo thành hình chữ Y-cà-rét tức Y dài. Ở Đà Lạt, Lâm Đồng hay Trà Ôn, Vĩnh Long, Phụng Hiệp, Hậu Giang cũng có cầu chữ Y nhưng ít người biết. Hồi còn đi học ở Sài Gòn, tôi từng đạp xe qua cầu chữ Y, ngang qua lò heo Chánh Hưng dọc theo kinh Tàu Hủ đi thăm cô bạn người Hải Nàm (Cô ấy mất ở Bỉ đã nhiều năm). Và tôi cũng có lần đứng trên cầu chữ Y trên bờ Hồ Xuân Hương, Đà Lạt phồng mũi cố hít… mùi cà phê trong quán Thủy Tạ thoảng hương từ bên kia bờ hồ.

   

Ngoài ra, Những Đóa Hoa Tật Nguyền còn có những nét đáng yêu khác, như Cầu Vòng Và Em (tr. 23), Em Newton (tr. 24), Eureka (tr. 26), Quy Y (tr. 27), Đũa (tr. 97), Mẹ Và Em (tr. 116)…, là một cách nhìn khá cởi mở, tự do và phóng khoáng.

  

Nhưng mà Những Đóa Hoa Tật Nguyền là hoa gì, lật từng trang sách tôi tìm hoài mà chẳng thấy hoa đâu? Hoa mọc ở cành Nam mà tôi như con chim rả cánh bay tìm biển Bắc? Thì ra những đóa hoa tật nguyền này không phải là những vật thể làm bằng giấy, bằng nhựa hay bằng tinh bột mà tác giả đã làm ra nó bằng ký ức được miêu tả bằng những "biểu tượng tâm linh" nhấp nhô bào ảnh.

   

Những trận đánh, máu lửa ngày chiến chinh, cơn bão thép, cõi đất dữ, đời lỡ vận, cuộc chia ly Âu Lạc, vun vút tiếng gươm bay, máu đổ Lệ Chi Viên, lạnh một tiếng cười xa xăm, phù hư một thoáng, oan nghiệt cõi đi về, trận đại dịch tràn tới, cơn hồng thủy đỗ về, rừng cạo trọc, sông cạn núi mòn, ma quỷ đảo điên chiều lịch sử, sự kiêu hãnh mù lòa, tiếng người chết nghiến răng, một cuộc mất trinh, trần gian héo rũ, những nỗi đau không đếm hết

  

Dưới cái nhìn của Như Không tất cả những biểu tượng tâm linh kia lần lượt trở thành "những đóa hoa tật nguyền". Tuy tật nguyền nhưng những đóa hoa đời không bao giờ héo. Lịch sử cũng vậy, thay vì héo lại sáng bừng lên một vẻ đẹp rưng rưng.

 

.

NHƯ KHÔNG sinh năm 1951 tại Quảng Nam. Trong thời chiến là lính Nhảy Dù. Giải ngũ trước 1975 do chiến thương. Tiếp tục đi học lấy bằng cử nhân văn, dạy học nhiều Trung Tâm Ngoại Ngữ tại Sài Gòn.

Tác phẩm đã in:

- Hoàng Nhã Như Không ( thơ, 2012 ).  Những Đóa Hoa Tật Nguyền (thơ và truyện ngắn, 2021 ). Góp mặt trong tác phẩm 108 Nhà Văn, Nhà Thơ Giữa Thế Kỷ XX do Nhà Biên Khảo Ngô Nguyên Nghiễm thực hiện, 2020. Góp mặt trong tác phẩm 44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại do nhà thơ Luân Hoán thực hiện, 2021. Bài vở đóng góp cho các tạp chí văn học trong và ngoài nước. Hiện sống, viết, vẽ, dạy học trong nước.  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Qua cuốn sách này, Kissinger tổng kết những trải nghiệm phong phú qua hơn sáu thập kỷ trong chính trường thế giới. Là một người theo trường phái Hiện thực cực đoan (Hard-core Realist) trong lý thuyết Bang giao Quốc tế, ông đã phân tích theo khảo hướng lịch sử một cách xuất sắc về hệ thống chính trị châu Âu, các nước theo Hồi giáo, Trung Quốc và Mỹ, nhưng không đề cập đến sự phát triển tại châu Mỹ La tinh. Ông kết luận rằng có một hình thái mới trong quan hệ các siêu cường, nó dựa trên hệ thống theo Hoà ước Westphalen, sự cân bằng quyền lực trên toàn cầu và các nguyên tắc không can thiệp, tất cả sẽ là một mệnh lệnh chung cho việc xây dựng trật tự thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn chung, Kissinger không thể cung cấp các giải pháp khả thi hay bước đầu hữu ích. Có nhiều lý do để phản luận Kissinger mà bài điểm sách sau đây sẽ đề cập.
Ba mươi tháng Tư năm 1975 là dấu thời gian của những đổi đời, của vinh quang cùng đau khổ. Nhiều câu chuyện đã được kể lại, nhiều hồi ức đã viết về đất nước với chiến tranh quốc cộng và hệ lụy kéo dài. “Cha Vô Danh” [Nxb. L’Harmattan, France 2019, 532 trang] của Phạm Ngọc Lân ghi lại biết bao đổi thay, thăng trầm của đất nước, nhưng có những nét riêng vì trải dài gần ba phần tư thế kỷ từ đầu thập niên 1940 cho đến năm 2015 và qua những nơi ít được nhắc đến như Ba Bình, Lạng Sơn, Bảo Lộc, Vincennes, Toulon, Fréjus, Nouméa.
Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học tại Đại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Cuộc đời của Nữ Thiền sư Dipa Ma đã được tác giả Amy Schmidt đem vào tác phẩm “Knee Deep in Grace, The extraordinary Life and Teaching of Dipa Ma”. Sau đó, Tác phẩm nầy được bổ túc thêm để trở thành tác phẩm mang tên “Dipa Ma, The Life and Legacy of a Buddhist Master”. Dipa Ma (1911- 1989) ra đời tại Chittagong, một làng nhỏ nằm về phía Đông xứ Bengal (ngày nay là Bengladesh). Lúc dó Bà mang tên là Nani Bala Barua chớ chưa phải là Dipa Ma.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn. Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi. / A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT/ Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết.
Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...
Đầu thập niên 60, thầy Nguyễn Phú Long, hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ở Vĩnh Điện, Quảng Nam - dịch giả Nguyễn Kim Phượng – làm thơ với bút hiệu Hoàng Thị Bích Ni. Nhà thơ Luân Hoán, nòi tình với thi ca từ thuở học trò cho đến nay xấp xỉ tám mươi, với bút hiệu nàng thơ Châu Thị Ngọc Lệ xuất hiện trên tờ Ngàn Khơi, Thời Nay… mượn địa chỉ của một người đẹp có thật tên Đoàn Thị Bích Hà, ở Đà Nẵng. Có người từ Sài Gòn ra tìm… sợ bể mánh nên lấy bút hiệu khác là Lê Quyên Châu.
Tôi tình cờ đọc được một bài tiểu luận sâu sắc của một cựu nhân viên tình báo Hoa Kỳ nhắc đến việc virus Covid-19 có thể thoát ra từ một phòng thí nghiệm sinh học ở Vũ Hán Trung Quốc do điều kiện bảo giữ thiếu an toàn. Bài viết khiến tôi liên tưởng tới nhiều điều trùng hợp kỳ lạ giữa câu chuyện đại dịch hôm nay với câu chuyện đại dịch trong tiểu thuyết "Hoả ngục" của nhà văn Dan Brown bắt nguồn từ một con vi khuẩn.
Trong thời buổi đại dịch toàn cầu, mọi người đều được yêu cầu ở trong nhà không đi ra ngoài ngoại trừ có việc cần và khi xét nghiệm dương tính với COVID-19 thì phải tự nguyện cách ly tại nhà.Đối với nhiều người đây là thời gian rảnh rổi nhất từ trước tới giờ. Suốt ngày ở trong nhà, cứ đi ra rồi đi vào, hết ăn rồi ngủ, hết xem truyền hình rồi ra vườn nhổ cỏ trồng cây. Nhưng rồi thời gian vẫn thấy dư thừa nhiều. Nếu bạn là người thích đọc sách thì đây là lúc để bạn đọc những cuốn sách mà mình thích nhưng vì lâu nay bận rộn nên chưa đọc được. Nhân tiện, Việt Báo xin giới thiệu một số sách được mục văn hóa của trang mạng www.bbc.com tiếng Anh bình luận cho là hay nhất trong năm 2020 tính tới thời điểm này.
Chết Dưới Tay Trung Quốc lẽ ra là sách “gối đầu giường” cho các nhà lãnh đạo, chính trị gia trên thế giới nhưng bóng ma vòi bạch tuộc của Trung Quốc quá lớn, bao trùm lãnh thổ khắp mọi nơi… Dù có một trăm quyển sách như vậy cũng khó phá tan đám mây đen vần vũ đe dọa trên hành tinh con người. Hơn thế nữa, Trung Quốc trở thành miếng mồi ngon cho giới kinh doanh đầu cơ trục lợi, giới chính khách bị mua chuộc và lợi dụng cơ hội để xâm nhập, khuynh loát vào nội tình của các quốc gia nhằm dụ dỗ, tuyên truyền và phân hóa nội tình của mỗi nước. Với các nước nhược tiểu, Trung Quốc dùng thủ thuật “cây gậy và củ cà rốt (carrot and stick) trong chính sách đó “cây gậy” tượng trưng cho sự đe dọa trừng phạt, “củ cà rốt” tượng trưng cho quyền lợi, phần thưởng. Với các siêu cường, Trung Quốc xử dụng chính sách ve vãn (flirtation policy). Trò xảo quyệt, thủ đoạn chính trị nầy đã có từ thời kỳ mô tả trong Đông Châu Liệt Quốc, giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc trước công nguyên trải qua năm trăm năm ở


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.