Hôm nay,  

Đọc “Giáo Sĩ” của Trần Vũ: Lời Ngợi Ca Chữ Việt

27/12/202109:16:00(Xem: 3646)
blank

 

  

Có thể tóm tắt một lời về tập truyện “Giáo Sĩ” của Trần Vũ hay không? Tôi do dự. Trong tuyển tập “Giáo Sĩ” là 9 truyện, mỗi truyện hay một cách khác, tuy văn phong xuyên suốt vẫn rất là Trần Vũ --- nghĩa là độc đáo, kỳ ảo, như mơ như thực, từng trang là những hình ảnh ngoại sử xen vào đời thực, một bút pháp rất lạ, hoàn toàn đứng ngoài tất cả các khuynh hướng văn học thế giới hay Việt Nam. Có lẽ, nói gọn thế này sẽ thích hợp: truyện của Trần Vũ là những lời rất mực kỳ ảo để ngợi ca chữ Việt.
 

Tôi đã đọc truyện của Trần Vũ từ lâu rồi, từ những năm của gần ba thập niên trước. Bây giờ là cơ duyên đọc lại, đọc kỹ hơn, khi tập truyện “Giáo Sĩ” được Trần Vũ ấn hành năm 2021. Tôi đọc trong những tuần lễ cuối năm, từ từ, chậm rãi. Mỗi lần đọc, là mỗi lần nhìn ra khác hơn. Tôi đọc trong thái độ của người đứng bên thế giới này, nhìn sang bên kia thế giới, một thế giới nào đó hẳn là tôi chưa biết tận tường. Đúng như thế, ngay cả những đoạn văn, hay những trang khi tôi đọc qua, đọc lại vài lần, có vẻ như là những gì được làm mới hơn.
 

Tất cả truyện Trần Vũ sáng tác đều là phi truyền thống. Nói đúng, là sáng tác, không phải kể truyện. Nơi đây, chúng ta không có ý nói rằng cách viết này, hay cách viết kia là ưu thắng. Chỉ muốn nói rằng, Trần Vũ viết không giống ai, viết rất khác, viết rất phi truyền thống. Ngay cả khi chúng ta nhìn thấy những gì quyến rũ trong truyện Trần Vũ, cũng không thể kể lại các cảm xúc. Truyện Trần Vũ như hư, như thực.
 

Thí dụ, chúng ta đọc trong truyện ngắn “Mùa Mưa Gai Sắc” khi Trần Vũ kể về ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ… lại là qua một nhân vật xưng tôi. Truyện dựa vào lịch sử, nhưng đầy hư cấu. Nhân vật xưng tôi cũng là cái gì đánh đố suy luận, đầy những hóa thân, tạo ra nhiều lớp sương mù trong vị trí kể truyện, vì “Tôi biết Huệ đã lâu. Từ lúc Huệ còn niên thiếu…” (trang 9)
 

Chọn vị trí cho “tôi” như thế, cho độc giả cảm giác rằng “tôi” phải là bạn đồng song từ đất Bình Định, có thể là học cùng Thầy hay là bạn cùng đất võ. Nhưng rồi Trần Vũ lại cho “tôi” hóa thân thành một phụ nữ “Tôi chơi với Hân từ thuở bé…” (trang 37) Bạn với công chúa Ngọc Hân từ thuở bé, hẳn cũng là người của hào môn, kín cổng cao tường, có thể là hoàng thân hay là từ cửa nhà quan.   
 

Thế rồi nhân vật “tôi” lại chứng kiến Nguyễn Huệ say rượu với hình ảnh “Huệ uống tới lúc ngủ quên trong thau. Tôi đỡ Huệ dậy…” (trang 33) và rồi nhân vật “tôi” quan sát Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm đánh cờ tướng, với lời kể “tôi đành bỏ ra xem Chỉnh và Nhậm đánh cờ.” (trang 34).
 

Tất cả các lời kể truyện đan xen vào nhau, cho thấy một thế giới chúng ta khó hình dung, hệt như thế giới nhiều tầng, làm mọi chuyện như là mơ, không phải truyện kể theo thứ tự thời gian. Truyện cũng rất là Tây phương – hoàn toàn không theo kiểu truyền thống. Như kiểu làm tình giữa Nguyễn Huệ và công chúa Ngọc Hân. Dữ dội. Huệ dùng roi đánh vào Ngọc Hân. Rồi Hân cào mãnh liệt vào lưng Huệ y hệt như sư tử cái. Chớ hề có kiểu như Nguyễn Đình Chiểu khi cho Lục Vân Tiên nói với nàng Nguyệt Nga rằng, “Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái, ta là phận trai.” Hình như trong truyện viết bằng Việt ngữ của tất cả các tác giả tôi từng đọc chưa từng có ai kể cảnh làm tình mà “chàng” lấy roi đánh túi bụi vào “nàng” để cả hai tìm cảm giác. Vậy mà, Nguyễn Huệ làm như thế với nàng Ngọc Hân.
 

Hiển nhiên, trong truyện, công chúa Ngọc Hân lộ ra tham vọng muốn gây dựng lại nhà Lê. Nhân vật xưng “tôi” rất mực tâm ý tương thông với công chúa Ngọc Hân: “Đêm đêm chứng kiến cảnh Hân chịu đòn, tâm thần tôi tan nát. Tôi thân thiết với Hân như hai chị em song sinh, cùng cha, cùng mẹ, cùng một nỗi lòng con gái mới lớn, kê vai lãnh trọng trách trung hưng nhà Lê chẳng khác đội đá vá trời…” (trang 40)
 

Truyện Trần Vũ cho chúng ta một cách nhìn vào sử khác hơn. Lịch sử không còn được kể theo kiểu thời gian diễn tiến, với những trận đánh và với các văn thư triều đình. Lịch sử nơi truyện Trần Vũ là thế giới sâu thẳm của tâm ý nhân vật. Nơi đây hình ảnh như mơ, như thực. Cho độc giả thấy lịch sử là kính vạn hoa, là những con người với đầy đủ vui, buồn, giận, hờn, thương, ghét… Lịch sử nơi Trần Vũ không còn là các văn bản của sử gia triều đình, nhưng là những gì rất mực đau đớn, rất mực riêng tư. Trong truyện Trần Vũ, có nhiều chi tiết hiểu là bí mật cung đình được kể lại, hay được suy luận trong bối cảnh khác, do tác giả ghi lại với nhiều hình ảnh được đẩy xa tới mức có thể tin là hư cấu. Tuy nhiên, chớ nên nghĩ rằng văn phong huyền thoại là cái gì không thích nghi, bởi vì ông bà chúng ta từ cả ngàn năm đã kể rằng dân tộc Việt là từ trăm trứng sinh ra, và phân nửa được mẹ là nàng tiên Âu Cơ dẫn lên núi, và phân nửa còn lại được cha là vua rồng Kinh Dương Dương đưa về biển. Phải chăng Trần Vũ viết theo văn phong huyền thoại cũng là liên kết từ sử tính Tiên-Rồng đã có từ nhiều ngàn năm?
 

Truyện “Vĩnh Yên 1973” lại cho thấy một văn phong khác, khi Trần Vũ kể chuyện nội chiến Việt Nam với năm 1973 (thời điểm của hòa ước Paris) kéo dài từ trận Vĩnh Yên với quân Pháp do de Lattre chỉ huy trong khi Võ Nguyên Giáp đưa quân bao vây. Các thời gian như thế cứ xen kẽ nhau trong suy nghĩ của nhân vật có tên là “bà Vạn Xuân”… Và giữa các chi tiết truyện giữa Vĩnh Yên, Điện Biên Phủ, Sài Gòn, Tân Định… là hai đồ hình lượng giác (trời ạ, toán học, lại làm cho chới với những người kém toán, kém hình học, kém lượng giác như tôi). Cuối truyện “Vĩnh Yên 1973” là hai trang “Ghi chú quân sự”…với các chi tiết về binh lực hai bên ở trận Vĩnh Yên trong tháng 1/1951.

.

Truyện nào cũng có văn phong kỳ ảo kiểu riêng. Trong đó, Trần Vũ đều ghi rõ các chi tiết để thấy những tầng lịch sử bồng bềnh, chỉ có thể trong trí tưởng, hay trong giấc mơ. Như trong truyện “Di Sản Triều Lý,” tác giả Trần Vũ ghi đầu truyện là “Kỷ niệm nghìn năm Thăng Long” và ngay trong đoạn văn đầu truyện đã cho biết khung cảnh hiện ra trước mắt nhân vật xưng tôi là “Kinh sư đầu triều Lý mang sắc đẹp bán khai dữ dội của những cánh rừng bàng chưa phát quang. Kiệt hay đứng ở bờ nước…” (trang 81) Kiệt đây là Lý Thường Kiệt, một danh tướng thời Lý sinh năm 1019 và từ trần năm 1105.
 

Trần Vũ đưa bối cảnh truyện về thế kỷ 11, truyện kể “Chỉ về đến Thăng Long, chúng tôi ngỡ ngàng khám phá ra đang ở triều Lý.” (trang 83-84) Lý Thường Kiệt nhìn dò xét về nhóm nhân vật được Trần Vũ gọi là “chúng tôi” (một nhóm 4 người của thế kỷ 21 đi lạc về lịch sử thời Lý). Truyện cho chúng ta cảm giác như dường Lý Thường Kiệt không thật, ngay cả một bóng hình xưa.
 

Tác giả nhận định về Lý Thường Kiệt: “Kiệt nổi tiếng qua sách vở. Hắn nổi danh như cồn một thời với một bài thơ Tân Hình thức mà toàn quốc ngâm i ỉ Nam quốc sơn hà nam đế cư…” (trang 84)
 

Nhưng, chớ nên vội vàng nghĩ rằng nhóm “chúng tôi” đi ngược chiều về lịch sử, bời vì tự thân nhân vật Lý Thường Kiệt cũng có vẻ như “xuyên không” – nghĩa là như dường cũng phóng mình về tương lai của sử Việt. Bởi vì, tác giả Trần Vũ cũng kể về Lý Thường Kiệt:

Lý Thường Kiệt có khả năng thích ứng phi thường. Trong chiến tranh sống sót qua bao trận lao mác, đến thời bình đi buôn lò chạy sóng vi ba ở cửa khẩu Lạng Sơn, bị bắt vì nhập hàng lậu, hắn thản nhiên thi hành án rồi ra khám đỗ đầu vào Trường Việt Văn Đinh Tiên Hoàng. Chúng tôi biết đang gặp Đối tượng Nhân dân của xứ này.” (trang 85)
 

Kiệt kể cho nhóm “chúng tôi” rằng Kiệt cũng có thói quen nhìn xuyên qua biên giới: “Hắn nói bên Trung Quốc có Lý Liên Kiệt thì Đại Việt sẽ có Lý Thường Kiệt…” (trang 86)
 

Truyện “Di Sản Triều Lý” ghi thêm nhiều chuyển biến và phân cảnh nữa, nhưng cuối truyện mới là nhức nhối: “…Kinh sư đang rầm rộ đón Tống Khiết Trì. Những tấm đoạn đỏ thêu sáu vì sao phất cao như sức hãnh tiến của một triều đại man trá.” (trang 98) Tác giả chỉ viết như thế, còn độc giả muốn suy diễn sao thì tùy vậy.

.

Nhìn lại, tôi thích nhất trong tập là truyện “Giáo Sĩ” – truyện có độ dài khoảng 80 trang sách, khổ chữ 13, nghĩa là dài hơn tất cả những truyện mà chúng ta quen gọi là truyện ngắn. Mở đầu truyện là trích khoảng 2 trang rưỡi từ “Đời Mưa Gió” của Khái Hưng và Nhất Linh, ấn bản 1934, nơi trang 35. Phần trích đoạn là hình ảnh cô Tuyết đến tận nhà Chương để thăm và cảm ơn, một diễn biến rất bất ngờ đối với Chương. Chúng ta có thể nhớ rằng, “Đời Mưa Gió” ấn hành năm 1934, thời kỳ phụ nữ còn kín cổng cao tường tại Việt Nam. Cô Tuyết lại đi một mình tới nhà Chương, không hề rủ ai đi theo để chứng kiến hay để cho đỡ mắc cỡ.
 

Dưới mắt độc giả Việt trong gần một thế kỷ qua, cô Tuyết rất hiện đại này là sản phẩm của Khái Hưng và Nhất Linh. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả Trần Vũ, cô Tuyết cũng là sản phẩm của Giáo sĩ Alexandre Lucien Abel de Rhodes, một người có công góp sức hình thành chữ quốc ngữ.
 

Nơi đây, chúng ta cần thanh minh thanh nga rằng, tác giả Trần Vũ chỉ sáng tác văn học, chỉ viết truyện, không có ý vướng vào tranh cãi chuyện có phải Giáo sĩ de Rhodes đã mời gọi quân Pháp vào thống trị Việt Nam hay không. Không, Trần Vũ không bàn chuyện chính trị. Cũng không bàn chuyện tranh cãi về tôn giáo, rằng có phải Giáo sĩ de Rhodes chỉ muốn Đấng Blời đẩy toàn bộ Phật tử xuống địa ngục như trong sách Phép Giảng Tám Ngày. Trần Vũ cũng không bàn chuyện công/tội, cũng không bàn chi tiết về cội nguồn chữ quốc ngữ. Trần Vũ chỉ viết truyện, và truyện này có thể xem như là lời ngợi ca văn học chữ quốc ngữ mà nhiều người đã góp sức hình thành, trong đó có Khái Hưng và Nhất Linh.
 

Hình ảnh Giáo sĩ trong truyện Trần Vũ là một “Alexandre Lucien Abel de Rhodes mang gương mặt thống khổ và si mê của oan hồn chưa hề biết đến tình yêu. Những ai bắt gặp giáo sĩ những năm thánh chiến, thảng thốt nhận ra bóng ma mang nỗi buồn chín thối ruột gan của một người đàn ông chưa toại nguyện thân xác. Hôi thối đến nỗi những người lính Marốc của tiểu đoàn 10 Tabor tăng cường cho trung đoàn 3 Lê Dương phải bịt mũi trước xú uế nồng nặc bốc tỏa từ nhà thờ chính tòa Cao Bằng.” (trang 283-284)


 

Giáo sĩ được Trần Vũ mô tả là kinh khủng tới mức “Mỗi khi Alexander de Rhodes thăm các họ đạo, các ruộng mạ mới xanh mơn mởn bỗng dưng héo úa hóa ra cần cỗi rồi đổ rạp xuống thành đống rạ cũ mốc như đã cháy khô từ bao kiếp nào.” (trang 284)
 

 Giáo dân được mô tả cuồng nhiệt tới mức “Mỗi sáng chúa nhật rước lễ, trông thấy De Rhodes hiện hình trên bục giảng, các con chiên giáo xứ òa khóc vật vã tức tưởi như vừa trông thấy chính đấng Christ đang chịu thương khó trên thập tự giá.” (trang 284)
 

Giáo sĩ đang chờ chung kết của lịch sử, theo tác giả kể trong truyện, “…ai cũng biết giáo sĩ De Rhodes chết từ lâu lắm, vong hồn chưa siêu thoát, còn đợi Ngày Phán xét Cuối cùng chưa xảy đến, hãy còn quyến luyến Đông Dương vùng đất ông đã đến truyền giáo và lập chữ viết bản xứ.” (trang 285)
 

Giáo sĩ được Trần Vũ mô tả rằng tuy là một oan hồn nhưng vẫn “mặc cảm với tất cả mọi đàn bà” bởi vì ông đã “bị thượng đế tước mất chức năng đàn ông…” Và đó là lý do “De Rhodes chỉ còn một nỗi đam mê cuối cùng duy nhất. Nỗi đam mê tiểu thuyết.” (trang 286)
 

Với nỗi đam mê tiểu thuyết, Giáo sĩ “lùng sục những chợ sách, nhưng rất nhanh De Rhodes ngạc nhiên thấy tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh in hệt tiểu thuyết Pháp, tiểu thuyết Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Trọng Quản không khác mấy thời ông viết Phép Giảng Tám Ngày và tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng châm biếm nhức nhối ông không sao hiểu hết. Giáo sĩ bắt đầu tuyệt vọng, ông ợ hơi thum thủm và nỗi buồn chín thối ruột gan càng lúc càng nồng nặc thối hoăng khắp vùng. Các họ đạo xa lánh dần nhà thờ…” (trang 287-288)
 

Thế rồi Giáo sĩ khám phá ra các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn. Trần Vũ kể: “Giáo sĩ không ra khỏi hầm đá, ăn uống tiêu tiểu ngay bên cạnh giá sách Tự Lực. Thậm chí ông không có thì giờ vén áo chùng mỗi khi đại tiện…” (trang 288)
 

Nhưng tới cuốn “Đời Mưa Gió” (có trích 2 trang rưỡi nơi đầu truyện “Giáo sĩ”) thì Giáo sĩ say mê nhận ra một thế giới tuyệt vời, theo ngòi bút Trần Vũ: “Lần đầu tiên giáo sĩ khám phá trong tiểu thuyết ghi chép những điều mà kinh thánh không hề nhắc đến. Đời Mưa Gió ghi chép tất cả tâm trạng con người khi yêu mà De Rhodes chưa hề thấy trong Tân Ước, Cựu Ước. Ông si mê Đời Mưa Gió đến quên đại tiện, quên lễ Misa, quên cả làm phép Sức Dầu ở nhà xác thị xã cho toán lính Marốc vừa tử trận.” (trang 290)
 

Có những đoạn văn Trần Vũ viết đẹp như thơ, khi kể về “De Rhodes viết đêm ngày, trăng lên trăng xuống ông không hay, mưa bão ông không hề biết, viết đến rách giấy, viết đến thủng bàn gỗ cẩm lai khiến ý văn tung tóe, chảy lai láng trên mặt đất. Thậm chí bình mực đã cạn, giáo sĩ vẫnt iếp tục chấm, tiếp tục viết đến lúc ngòi bút cùn vẹt, cán bút lụn dần rồi biến mất mà mực vẫn cứu tiếp tục trào ra chảy ở đầu ngón tay ông sưng đỏ như quả ớt.” (trang 290)
 

Giáo sĩ tắt thở đã hơn ba trăm năm nhưng nhớ tới hình ảnh cô thiếu nữ trong đêm kiệu Maria ở thành Goa, và Giáo sĩ đi tìm hình ảnh cô… thế rồi tác giả Trần Vũ cho cô hiện ra với Giáo sĩ. Hình ảnh này kể như sau.
 

Thiếu nữ cũng nhìn anh trừng trừng trăn trối, cho đến khi cô gái chắp hai tay vái:

--- Vâng em là Tuyết của Đời Mưa Gió, của Nhất Linh và Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn, người chịu ơn của anh!

Alexander Lucien Abel de Rhodes chỉ kêu lên được hai chữ thảng thốt Blời ơi rồi ngất đi.” (trang 295)
 

Đúng vậy, cô Tuyết chịu ơn Giáo sĩ. Vì có chữ quốc ngữ, nên có cô Tuyết. Tới đây, truyện có diễn biến mới, kể về Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny của trung đoàn 3 Lê Dương trong các trận đánh ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn. Một hôm, “Bernard hối tiếc anh chưa bao giờ xuống xóm thổ, chưa bao giờ ân ái với phụ nữ. Viên trung úy đi ngay xuống xóm yên hoa ven sông Hiểm, bất chấp những ổ phục kích đêm của Việt Minh, nhưng Bernard de Lattre khám phá thêm một điều kinh khủng, anh hoàn toàn bất lực, không có khả năng sinh lý, dù nhỏ nhoi, hiếm muộn.” (trang 298)
 

Trong một lần càn quét, Bernard tông cửa vào một giáo đường, nhìn thấy dưới tượng Đức Mẹ là cô Tuyết chắp hai tay vái, “Ối anh đừng bắn! Em là Tuyết của Đời Mưa Gió, người chịu ơn của anh!” (trang 302) Vâng, đúng thế, nhờ có binh lực Pháp, nên các giáo sĩ làm cho chữ quốc ngữ cắm rễ nhanh hơn, sâu hơn vào văn hóa Việt. Xin anh đừng bắn, vì em đang trở thành đứa con lai xinh đẹp cho một nền văn học mới của Việt Nam.
 

Những người lính Châu Phi kinh ngạc khi thấy trung úy Bernard de Lattre “thở hào hển, hối hả gục mặt xuống đất hôn như mưa lên nền đá hoa cương, đôi lúc đối thoại bí mật với một người đàn bà nào đó, có lúc gần như tỏ tình đắm đuối đến kiệt sức.” (trang 304)
 

  Thế rồi De Lattre quăng vũ khí, “cởi áo quần, nhảy xuống sông Bằng Giang, bơi đến tận nguồn, mãi đến tối mịt ông mới bơi trở về, và chuyện lạ hiếm có, lần đầu tiên ông dẫn cả đơn vị xuống xóm thổ, đãi bia và thuê bao tất cả những cô gái điếm kinh nghiệm. Suốt đêm đó, cả thị xã không ai ngủ được vì tiếng rên la thỏa mãn không đứt quãng…” (trang 304-305)

Thế rồi cô Tuyết xưng tội với Giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Cô Tuyết không yêu Chương (cả Tuyết và Chương là hai nhân vật trong tiểu thuyết “Đời Mưa Gió”), trong khi Tuyết căm thù Nhất Linh vì buộc cô phải yêu Chương. Nhưng căm thù của cô Tuyết với Nhất Linh thực sự là vì “nàng vẫn còn yêu, còn kính phục và vẫn hãy còn hờn giận đến phút nàyTuyết biết nàng đã yêu Nguyễn Tường Tam ngay từ những giòng chữ đầu tiên của Đời Mưa Gió.” (trang 309)
 

Trong khi Nhất Linh Nguyễn Tường Tam tới tòa soạn trên phố Cổ Ngư, ngồi viết tiểu thuyết, tác giả Trần Vũ kể lại trong truyện: “Có những đoạn đã khiến nàng cười ngất, cười đến ngã hẳn vào lòng anh Tam, những lúc đó cánh áo pyjama bung mở phô bày thân thể nàng, Tuyết đã chờ đợi   biết bao lần anh Tam áp mặt vào ngực mình, hôn lên chiếc bụng phẳng, nhưng lần nào Nhất Linh cũng gỡ tay, đỡ nàng dậy, cài lại năm cúc áo và khuyên nàng đi nghỉ.” (trang 310)
 

Trần Vũ lại ghi nhận rằng cô Tuyết tát vào mặt Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và mắng: “Anh đối xử với đàn bà một cách khốn nạn!” (trang 312) Lý do: tác giả Nhất Linh tới “cuối truyện bắt nàng ho lao và trở thành một con điếm.” (trang 312)
 

Chưa hết, “Những ngày sau Tuyết làm tình với Hoàng Đạo ở phố Cổ Ngư để trả thù Nhất Linh. Anh Tam bỏ nàng, rời Hà Nội sang Trung Hoa đi làm một cuộc cách mạng nào đó mà Tuyết không sao hiểu.” (trang 313)
 

Cuộc cách mạng mà Tuyết không sao hiểu? Làm sao Tuyết hiểu nổi. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm cuộc cách mạng chống Pháp, trong khi nàng Tuyết hiển lộ từ các trang sách của Nhất Linh là đứa con gái nửa dòng máu. Cô Tuyết là sản phẩm của chữ quốc ngữ, biết ơn Nhất Linh và cũng biết ơn Giáo sĩ De Rhodes. Trong cơ duyên sau đó, cô Tuyết về giúp Giáo sĩ dịch tiểu thuyết chữ Việt (truyện không nói rõ, có lẽ dịch sang tiếng Pháp). Giáo sĩ say đắm cô Tuyết và có những lúc, tác giả Trần Vũ kể: “…nàng cũng tự hỏi không biết trong xác chết cha cố còn giọt máu nào không nữa. Những lúc Alexandre de Rhodes bất tỉnh, Tuyết khám phá điều kỳ lạ, bàn tay nàng xoa nắn đến đâu da dẻ ông căng trở lại, từ vết nhăn ba trăm năm đến nếp thịt bung nhão nhoẹt cứ ngón tay nàng chạm vào vụt thẳng ra, săn chắc, cứng cáp, cả vẻ mặt cha cố cũng trẻ ra cho đến khi ông trở thành một thanh niên cao lớn không còn khòm lưng nhưng mang vẻ đẹp quyến rũ của hiệp sĩ Thập Tự thời xa xưa.” (trang 319)
 

Thế đó, Giáo sĩ chỉ là một xác chết hôi thối, nhưng đã hồi sinh tuyệt vời mỗi lần cô Tuyết đưa tay sờ vào xác chết, mỗi lần cô Tuyết đưa môi hôn vào thi thể đã tan rã ba trăm năm. Cô Tuyết là hồn chữ Việt đã biến xác chết của Giáo sĩ De Rhodes thành một chàng trai quyến rũ, đầy sinh lực. Giáo sĩ hồi sinh trên từng trang chữ Việt.
 

Trong khi đó, cuộc chiến chống Pháp chuyển biến dữ dội hơn. Đại tá Antoine Marie Pierre Charton, lãnh chúa Cao Bằng, tư lệnh trung đoàn 3 Lê Dương, ngồi trong căn hầm chỉ huy chôn chìm sâu dưới lòng đất chứng kiến hiện tượng huyền bí: “… Gương mặt ông biến dạng móp méo thay đổi từng lúc trước các báo cáo tự động sang trang, lật mở từng phúc trình tối tăm mà không một ai đụng đến. Suốt đêm viên đại tá chứng kiến những hiện tượng quái dị. Vong các sĩ quan tử trận Đông Khê cứ lần lượt lê lết hiện về, trình diện cấp bậc, đưa bảng trận liệt khai báo quân số tử vong, mất tích, rồi đưa giấy khai tử chờ ký nhận tử tuất…” (trang 323)
 

Bí mật của chiến thuật Việt Minh? Trần Vũ ghi nhận: “Charton tin chỉ một mình ông khám phá ra chiến thuật Việt Minh. Lối đánh Phật giáo, chết đi sống lại liên tục luân hồi, khiến với quân số không tăng viện, trung đoàn Thủ Đô vẫn có thể xung phong  biển người, hết lớp này đến lớp khác, mà các đại liên Bren, Browning, Hotchkiss bốn nòng không thể chận đứng. Bộ đội Việt Minh không thể tử vong.” (trang 324)
 

Trong truyện “Giáo sĩ” tác giả cũng cho hình ảnh đấng Christ hiện ra nơi nhà thờ Cao Bằng. Cô Tuyết khám phá ra một bất ngờ rằng cô là người bất tử: “Tuyết khám phá ra nàng không thể chết. Nàng là một nhân vật tiểu thuyết không có khả năng chết…” (trang 343)
 

Nhưng sự hiện hữu của Tuyết cũng là một tỉnh ngộ, một tự ý thức: “Sáng đó Tuyết đã khóc thật nhiều vì vụt hiểu ra nàng chỉ có thể hiện hữu bằng tình yêu khai hóa duy nhất của Alexandre  Lucien Abel de Rhodes.” (trang 355)
 

Truyện “Giáo sĩ” có nhiều diễn biến phức tạp nữa. Nhìn chung, có thể nói rằng, truyện này của Trần Vũ là lời ngợi ca đẹp nhất cho chữ quốc ngữ -- nơi đó, cô Tuyết, Nhất Linh, Khái Hưng, Giáo sĩ De Rhodes đều trở thành những hình ảnh bất tử trong không gian chữ Việt.
 

Ngắn gọn, đây là tác phẩm cần có trong tủ sách của tất cả những người quan tâm về văn học.
 

Tuyển tập "Giáo Sĩ" của Trần Vũ, dày 366 trang, giá $12, có thể tìm ở trang:

https://www.barnesandnoble.com/

Xin gõ "tran vu" để tìm mua.

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Qua cuốn sách này, Kissinger tổng kết những trải nghiệm phong phú qua hơn sáu thập kỷ trong chính trường thế giới. Là một người theo trường phái Hiện thực cực đoan (Hard-core Realist) trong lý thuyết Bang giao Quốc tế, ông đã phân tích theo khảo hướng lịch sử một cách xuất sắc về hệ thống chính trị châu Âu, các nước theo Hồi giáo, Trung Quốc và Mỹ, nhưng không đề cập đến sự phát triển tại châu Mỹ La tinh. Ông kết luận rằng có một hình thái mới trong quan hệ các siêu cường, nó dựa trên hệ thống theo Hoà ước Westphalen, sự cân bằng quyền lực trên toàn cầu và các nguyên tắc không can thiệp, tất cả sẽ là một mệnh lệnh chung cho việc xây dựng trật tự thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn chung, Kissinger không thể cung cấp các giải pháp khả thi hay bước đầu hữu ích. Có nhiều lý do để phản luận Kissinger mà bài điểm sách sau đây sẽ đề cập.
Ba mươi tháng Tư năm 1975 là dấu thời gian của những đổi đời, của vinh quang cùng đau khổ. Nhiều câu chuyện đã được kể lại, nhiều hồi ức đã viết về đất nước với chiến tranh quốc cộng và hệ lụy kéo dài. “Cha Vô Danh” [Nxb. L’Harmattan, France 2019, 532 trang] của Phạm Ngọc Lân ghi lại biết bao đổi thay, thăng trầm của đất nước, nhưng có những nét riêng vì trải dài gần ba phần tư thế kỷ từ đầu thập niên 1940 cho đến năm 2015 và qua những nơi ít được nhắc đến như Ba Bình, Lạng Sơn, Bảo Lộc, Vincennes, Toulon, Fréjus, Nouméa.
Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học tại Đại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Cuộc đời của Nữ Thiền sư Dipa Ma đã được tác giả Amy Schmidt đem vào tác phẩm “Knee Deep in Grace, The extraordinary Life and Teaching of Dipa Ma”. Sau đó, Tác phẩm nầy được bổ túc thêm để trở thành tác phẩm mang tên “Dipa Ma, The Life and Legacy of a Buddhist Master”. Dipa Ma (1911- 1989) ra đời tại Chittagong, một làng nhỏ nằm về phía Đông xứ Bengal (ngày nay là Bengladesh). Lúc dó Bà mang tên là Nani Bala Barua chớ chưa phải là Dipa Ma.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn. Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi. / A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT/ Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết.
Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...
Đầu thập niên 60, thầy Nguyễn Phú Long, hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ở Vĩnh Điện, Quảng Nam - dịch giả Nguyễn Kim Phượng – làm thơ với bút hiệu Hoàng Thị Bích Ni. Nhà thơ Luân Hoán, nòi tình với thi ca từ thuở học trò cho đến nay xấp xỉ tám mươi, với bút hiệu nàng thơ Châu Thị Ngọc Lệ xuất hiện trên tờ Ngàn Khơi, Thời Nay… mượn địa chỉ của một người đẹp có thật tên Đoàn Thị Bích Hà, ở Đà Nẵng. Có người từ Sài Gòn ra tìm… sợ bể mánh nên lấy bút hiệu khác là Lê Quyên Châu.
Tôi tình cờ đọc được một bài tiểu luận sâu sắc của một cựu nhân viên tình báo Hoa Kỳ nhắc đến việc virus Covid-19 có thể thoát ra từ một phòng thí nghiệm sinh học ở Vũ Hán Trung Quốc do điều kiện bảo giữ thiếu an toàn. Bài viết khiến tôi liên tưởng tới nhiều điều trùng hợp kỳ lạ giữa câu chuyện đại dịch hôm nay với câu chuyện đại dịch trong tiểu thuyết "Hoả ngục" của nhà văn Dan Brown bắt nguồn từ một con vi khuẩn.
Trong thời buổi đại dịch toàn cầu, mọi người đều được yêu cầu ở trong nhà không đi ra ngoài ngoại trừ có việc cần và khi xét nghiệm dương tính với COVID-19 thì phải tự nguyện cách ly tại nhà.Đối với nhiều người đây là thời gian rảnh rổi nhất từ trước tới giờ. Suốt ngày ở trong nhà, cứ đi ra rồi đi vào, hết ăn rồi ngủ, hết xem truyền hình rồi ra vườn nhổ cỏ trồng cây. Nhưng rồi thời gian vẫn thấy dư thừa nhiều. Nếu bạn là người thích đọc sách thì đây là lúc để bạn đọc những cuốn sách mà mình thích nhưng vì lâu nay bận rộn nên chưa đọc được. Nhân tiện, Việt Báo xin giới thiệu một số sách được mục văn hóa của trang mạng www.bbc.com tiếng Anh bình luận cho là hay nhất trong năm 2020 tính tới thời điểm này.
Chết Dưới Tay Trung Quốc lẽ ra là sách “gối đầu giường” cho các nhà lãnh đạo, chính trị gia trên thế giới nhưng bóng ma vòi bạch tuộc của Trung Quốc quá lớn, bao trùm lãnh thổ khắp mọi nơi… Dù có một trăm quyển sách như vậy cũng khó phá tan đám mây đen vần vũ đe dọa trên hành tinh con người. Hơn thế nữa, Trung Quốc trở thành miếng mồi ngon cho giới kinh doanh đầu cơ trục lợi, giới chính khách bị mua chuộc và lợi dụng cơ hội để xâm nhập, khuynh loát vào nội tình của các quốc gia nhằm dụ dỗ, tuyên truyền và phân hóa nội tình của mỗi nước. Với các nước nhược tiểu, Trung Quốc dùng thủ thuật “cây gậy và củ cà rốt (carrot and stick) trong chính sách đó “cây gậy” tượng trưng cho sự đe dọa trừng phạt, “củ cà rốt” tượng trưng cho quyền lợi, phần thưởng. Với các siêu cường, Trung Quốc xử dụng chính sách ve vãn (flirtation policy). Trò xảo quyệt, thủ đoạn chính trị nầy đã có từ thời kỳ mô tả trong Đông Châu Liệt Quốc, giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc trước công nguyên trải qua năm trăm năm ở


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.