Hôm nay,  

Thái Tú Hạp: Làm Thơ Như Chép Kinh

20/03/202209:09:00(Xem: 5407)
blank

 

Thái Tú Hạp: Làm Thơ Như Chép Kinh
 

Nguyên Giác

 

Bạn đã từng yêu thơ, đã từng đọc thơ, đã từng làm thơ, đã từng say đắm với thơ... tôi tin rằng bạn sẽ đứng tim khi đọc tới những dòng:
 

cổng chùa khuya chưa khép
bầy sao rủ nhau về
soi trong hồ nước biếc
tiếng hạc buồn lê thê
 

Tôi đã đứng tim như thế, đã kinh ngạc đọc đi đọc lại các dòng thơ trên. Tôi đã nghiêng đầu, áp tai sát trang giấy để nghe xem tiếng hạc buồn lê thê thế nào. Tôi đã nghiêng trang giấy qua lại để xem có ngôi sao nào rơi ra từ giữa những dòng thơ. Khi đó, tôi đã thắc mắc vì sao có hình ảnh cổng chùa chưa khép trong thơ, có phải vì nhà sư thi sĩ đã đi lạc nơi phố chợ và quên mất lối về.
 

Đó là thơ Thái Tú Hạp. Đó là bốn dòng đầu của bài Sao Khuya trong tập thơ "Suối Nguồn Tâm Thức: Thơ Thái Tú Hạp." Tôi đọc tập thơ này từ hai năm nay, thỉnh thoảng lại lấy ra đọc, và lòng tự dặn lòng rằng cần viết một bài về thi tập này nhưng cứ mãi chần chừ. Phần lớn, vì đã có quá nhiều người viết về thơ Thái Tú Hạp. Thơ của anh thu hút quá nhiều lời bình luận, trong khi tự thân tôi không thể nghĩ ra những gì hay hơn; mà nhìn cho đúng, mình chỉ là một nhà báo, không đủ tư cách phê bình gia, viết gì cũng không nói được như ý, không nêu lên được nhan sắc của những dòng thơ họ Thái.
 

Tôi mê thơ. Xin tự thú nhận như thế. Hễ mê cái gì cũng là cũng lụy. Một thời tôi tự nghĩ, mình chỉ giả vờ mê thơ, giả vờ thị hiện mê thơ, chỉ để làm quen với văn nghệ sĩ. Vì chúng sinh cần thơ, thì mình có thơ. Như thế, mê thơ chỉ nên xem đơn giản như mê trà, hay mê cà phê… cũng như mỗi ngày phải ăn cơm, uống nước… Nhưng thực sự là tôi mê thơ, và tôi tự biện hộ rằng thơ là một cõi Niết bàn của chữ. Rồi có lúc tự nhìn lại, nghiệm ra là vì lý luận luôn luôn làm cho chúng ta mệt nhọc, nhức đầu; trong khi thơ không hề lý luận. Do vậy, đọc thơ chỉ nên tự nhiên như khi uống trà, như khi nhìn ra bầu trời để xem chim bay mùa xuân, hay để ngó ngoài hiên xem gió lay cành trúc, hay để nghe lưng trời một tiếng chuông chùa… Tức là, tất cả những gì tới với chúng ta đều là thực tướng, là hiển lộ của Niết bàn. Nơi đó, thơ Thái Tú Hạp cũng là một cõi chân trời say đắm.
 

Tôi không muốn kể về tiểu sử Thái Tú Hạp. Rất nhiều người đã biết, anh nổi tiếng về thơ từ trước 1975, anh được rất nhiều nhà phê bình phân tích và ngợi ca. Không lẽ mình chép lại lời những người khác viết về thơ Thái Tú Hạp, trong đó có những người rất nổi tiếng. Thêm nữa, rất nhiều nhạc sĩ đã phổ thơ anh, nghĩa là, nhạc tính trong thơ anh hẳn là phong phú, ý tứ trong thơ hẳn là gây xúc động cho nhiều nhà soạn nhạc…
 

Và do vậy, tôi nên trở về đúng vị trí của tôi: chỉ mở trang sách ra để đọc thơ Thái Tú Hạp thôi, cũng y hệt như mùa xuân bay qua để hiện lên những cánh đồng hoa bên đồi. Trong cõi đó, tôi ưa thích nhất, là những dòng thơ rất mực u hoài cổ tích của anh. Không gian thơ này là cái gì rất gần gũi với tôi: những mái chùa ở quê nhà, tiếng chim hót hòa vào lời kinh tụng. Đó là những hình ảnh không dễ tìm được nơi hải ngoại.  
 

Tập thơ dày 740 trang là tuyển tập những bài Thái Tú Hạp ưa thích nhất trong 60 năm làm thơ. Một bước chuyển biến của Thái Tú Hạp là rời quê hương. Bài thơ Ta Vẫn Yêu Người nơi trang 129-130 sáng tác từ Hồng Kông năm 1979 cho thấy hình ảnh nhà thơ ra đi nhưng trong lòng vẫn vọng lại tiếng chuông chùa nghìn thu cổ tích, trích đoạn thứ tư như sau:
 

Lòng ta như tiếng chuông
giữa chùa xưa u tịch
trên đỉnh buồn đau thương
của nghìn thu cổ tích.
 

 Ra đi hiển nhiên là tới đỉnh buồn đau thương, nhưng vẫn ủ trong ký ức là tiếng chuông chùa của những nghìn năm u tịch. Điều kỳ lạ nơi thơ Thái Tú Hạp, ngay cả khi làm thơ tặng hiền thê là nhà thơ Ái Cầm, độc giả vẫn thấy hiển lộ một không gian tự viện, như bài Doanh Doanh (trang 189-190) dài 6 đoạn, nơi đây trích đoạn thứ hai:
 

Giữa đời em sen ngát
khúc tiếu ngạo rong chơi
hồn Hoa Nghiêm rạng rỡ
sông núi mộng thơ ngây
 

Sen ngát là hình ảnh nhà Phật. Hoa Nghiêm là một bộ kinh lớn. Phải chăng thế giới hoa tạng đã hiện ra trước mắt nhà thơ Thái Tú Hạp…  để rồi ngay cả sông núi cũng mộng thơ ngây.
 

Đối với Thái Tú Hạp, hình như làm thơ cũng là một pháp tu. Bởi vì có những dòng thơ như dường nhắc tới các pháp ấn. Như bài Một Thoáng Phù Vân dài 10 đoạn nơi trang 238-239, ngay nhan đề đã nêu lên pháp ấn vô thường. Nơi đây trích đoạn thứ tư trong bài, có vẻ như hình ảnh giao thừa là để nói sự chuyển hóa của tâm hồn, vì ghi rõ là “bất tận” theo sau, trong khi thi sĩ nhìn về đất Phật (Tây trúc) và niệm từ tâm giữa khắp trời gió thoảng, vốn là ngoài cõi tâm.
 

Đêm giao thừa bất tận
tây trúc ngàn dặm xa
niệm từ tâm giao động
cơn gió thoảng ngoài ta.
 

Có những lúc phải tự nhắc chớ quên chánh niệm. Thế là Thái Tú Hạp sáng tác bài thơ Cõi Tình Riêng Ta, dài 5 đoạn nơi trang 319-320. Khi anh nói “riêng ta” có nghĩa là thế giới tâm của nhà thơ, nơi tâm bản nhiên đó đã có sẵn tàng kinh mật ngữ -- nơi đây, chữ “tàng” với chữ “mật” là nói tới những gì khó thấy, khó nghe, khó nhận biết. Tuy là ẩn mật, nhưng thế giới tâm đó là một cõi dị sử kỳ hương, nơi đó thi sĩ trải qua kinh nghiệm được một pháp giới Bát Nhã Tâm Kinh rằng thân tâm thi sĩ đã đi từ không đến có, trong một chuyển biến rất mực hư huyễn như sương… và rồi nhắc nhau hãy từ tâm chánh niệm. Trích hai đoạn cuối bài như sau.
 

Bao nhiêu tàng kinh mật ngữ
bao nhiêu dị sử kỳ hương
ta đi từ không đến có
cuộc đời hư huyễn như sương.
.
ta vì em hẹn mấy kiếp
con đường hạnh đạo an nhiên
vừng trăng từ tâm chánh niệm


soi tình ta cõi chân nguyên.
 

Kinh Phật thường nhắc rằng các pháp vốn là như mộng, nghĩa là y hệt như giấc mơ thôi; các pháp vốn là như huyễn, nghĩa là y hệt như hư ảo thôi. Thơ Thái Tú Hạp ghi lại mộng và huyễn bằng hình ảnh thơ mộng của mây trắng bay, cho thấy mây hợp rồi tan, biến hình mây thành vô lượng cái được thấy trước mắt để nêu lên thực tướng vô thường và bất khả nắm bắt, nghĩa là thực tướng cũng vốn là vô ngã, và các pháp ấn này cần được đốn ngộ tức khắc ngay khi mắt thấy mây trắng ngàn phương. Thấy như thế, thơ sẽ không làm lụy thi sĩ, vì ngay như thơ cũng được sáng tác trong ngọn lửa của “không hề có cái gì của tôi” – và rồi, chỉ là chiêm bao thôi. Bài thơ Đâu Ngờ Chiêm Bao nơi trang 322 có 4 câu cuối bài như sau.
 

Ngàn phương mây trắng thong dong
tâm chưa đốn ngộ em mong mỏi chờ
ta về gom lửa vào thơ
soi trong mắt biếc đâu ngờ chiêm bao.
 

Có bao giờ thiền sư động tâm? Một lần nhà thơ Thái Tú Hạp chợt nhìn thấy trong thơ anh hiện ra một thiền sư động tâm. Chỉ vi, khi nắng chiều chiếu lên trang kinh, những mùa nắng quê xưa hiện ra, và rồi hiện ra ngôi chùa cổ trên đồi, nơi vầng trăng nhiều đêm về ngủ nơi mái chùa. Bài thơ Giọt Nắng nơi trang 378, dài bốn đoạn, nơi đây trích hai đoạn đầu như sau.
 

Buổi chiều, trước công án
giọt nắng trang kinh nhòa
tâm thiền sư chợt động
những mùa nắng quê xưa
.
chùa cổ trên đồi cao
trăng về ngủ trên mái
trong vườn chim lao xao
mà hồn nghe tỉnh lặng.

                  

Thế rồi khi nhà thơ xa mẹ. Bất kể là đã vào tuổi trung niên, bài thơ Nhớ Mẹ sáng tác năm 1985, dài sáu đoạn, nơi trang 379-380 cũng ghi lại hình ảnh người mẹ của những âm vang tụng Kinh xen với lời mẹ dặn, của những ký ức về một ngôi chùa im vắng tiếng chuông trong mùa đông nghèo lạnh buốt giá. Nơi đây trích đoạn một và đoạn năm của bài Nhớ Mẹ:
 

Sáu năm rời xa mẹ
lòng con đầy tiếng kinh
tuổi đời rêu nắng xế
lời mẹ thiết tha tình
….
Sáu năm rời xa mẹ
chùa im vắng tiếng chuông
mùa đông nghèo lạnh buốt
thân xác gầy yêu thương…
 

Thơ Thái Tú Hạp dẫn độc giả vào một không gian mới. Nơi đây thi sĩ không sống trong cõi năm, tháng, ngày, giờ… mà đang sống với từng sát na – một đơn vị đo thời gian rất nhỏ, rất ngắn ở mức không hình dung được bằng toán học. Nơi đây, pháp ấn vô thường được anh kể lại, như dòng sông nước cuốn, nhưng vầng trăng tâm vẫn bất động, vẫn không bị nước cuốn trôi đi. Nơi đây, anh làm thơ y hệt như đang ngồi chép kinh: trong sát na hạnh ngộ của người nhận ra bản tâm bất động trong dòng thời gian chảy xiết, và anh gọi là Niết bàn cõi Tánh không. Nơi đây, nhà thơ nói hôm qua hãy buông thôi, ngày mai đừng mơ tưởng và dược mất chỉ là khói sương. Bài thơ Sát Na Hạnh Ngộ dài năm đoạn, nơi trang 385, nơi đây chúng ta trích ba đoạn đầu như sau:
 

Dòng nước cuốn trôi đi
vầng trăng còn ở lại
nước thường hằng chia ly
trăng một lòng chung thủy
.
có không nào ai biết
hoa tuyết giữa hư không
trong sát na hạnh ngộ
niết bàn cõi tánh không
.
chuyện qua như gió thoảng
chuyện mai chưa lên đường
đừng ngại ngùng lo nghĩ
được mất dường khói sương.
 

Nhận ra thực tướng các pháp chỉ là hư huyễn, luân hồi chỉ là như các vở kịch thay nhau miên viễn, nhưng khi thấy vầng trăng nguyên thủy, tất cả các sinh diệt rơi trước mắt như bóng hoa, khi đó thi sĩ viết xuống lời mời chánh niệm. Bài thơ Mùa Tịnh An, dài tám đoạn, nơi trang 454-455, trích ba đoạn cuối bài như sau:
 

Ước mơ nào hư huyễn
vở kịch đời chưa xong
đùa chơi trò nhân thế
tâm nguyên thủy vừng trăng
.
mười phương nhòa cát bụi
giọt nước cõi giang hà
lúa reo bờ hữu hạn
sinh diệt nào bóng hoa
.
tìm nhau trong chánh niệm
hiện hữu tách trà thơm
mời em mùa an lạc
hương sen ngát hồng ân.
 

Kinh Kim Cang thường được tụng tại các chùa Việt Nam. Thái Tú Hạp trong bài thơ Thắm Tờ Kim Cang đã ghi lại hình ảnh về ngôi chùa cổ để nghe kinh, nơi đó chim trên cành líu lo hót, cũng như dường đang phụ họa cho lời kinh để làm sáng tỏ ý nghĩa sắc/không. Toàn bộ bài thơ dài tám câu, nơi trang 474 như sau:
 

Ta về cổ tự nghe kinh
suối mây chim hót trên cành tĩnh tâm
hoa vàng xưa gặp cố nhân
sợi tơ nhân ngãi trăm năm đợi chờ
vầng trăng từ cõi nguyên sơ
hỏi nhau lá trúc thắm tờ Kim Cang
bụi nào xóa dấu sắc không
nghe chuông đại nguyện hóa thân chim trời.
 

Cũng nói về trang kinh vô tự, nơi các dòng chữ biến mất khi nhà thơ ngộ ra ý nghĩa sắc không bất dị để rồi nhận ra nơi tự tâm một vừng trăng xưa, bài thơ Thanh Tịnh Khúc mười bốn dòng, nơi trang 483, trích bốn dòng cuối như sau:
 

Mai về khép cánh biển dâu
giở trang vô tự trắng nhòa sắc không
tìm nhau trong cõi vô thường
soi tâm tư hiện một vừng trăng xưa.
 

Tuyển tập “Suối Nguồn Tâm Thức” cũng có nhiều bài thơ được dịch sang tiếng Anh, và các bài nhận định về thơ Thái Tú Hạp từ sáu nhà phê bình --- Bùi Bảo Trúc, Cao Mỵ Nhân, Duy Lam, Luân Hoán, Nguyễn Vy Khanh và Vũ Ký. Mỗi người từ một góc nhìn khác nhau đã viết về thơ của chàng thi sĩ họ Thái.
 

Gấp lại các trang sách cuối, hình ảnh lưu giữ trong tôi về thơ Thái Tú Hạp là một chàng thi sĩ ngồi dưới mái chùa cổ, cẩn trọng viết lên các dòng thơ trang trọng như đang chép kinh, nơi đó chàng nhìn thấy ý nghĩa sắc/không như giọt nắng vô tự lung linh trên trang giấy, nơi đó từng chữ anh viết là lời mời chánh niệm để nhận ra vầng trăng nguyên sơ của tự tâm, nơi đó là Niết bàn tự tâm và xa lìa tất cả những bể dâu ly tán của cõi này. Không dễ để viết được như thế. Và không dễ để có một nhà thơ như anh trong cõi này vậy.

.

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
Tập truyện ngắn “Chuyện cũ phù dung trấn” ( CCPDT), là tác phẩm thứ 16 của Tiểu Lục Thần Phong ( TLTP ). Sách dày 362 trang, gồm 36 truyện ngắn, với những suy tư trăn trở về cuộc sống nơi quê nhà và cả nơi xứ xa, mà tác giả hiện đang sinh sống. Thấm đẫm những hiện thực của cuộc sống và gắn kết cả chuyện đời, chuyện đạo, gây ấn tượng và những suy ngẫm cho bạn đọc...
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử..
Tập sách nhắc đến tiệm phở gần đầu đường Nghĩa Phát, vừa từ đường Bành Văn Trân rẽ vào, là tiệm của bác Huyền, người cùng giáo họ Long Cù, xứ Trực Chính với thày u tôi, là những gia đình công giáo theo các cha di cư vào Nam. Đó là tiệm phở đầu tiên nằm trong giáo xứ Nghĩa Hoà. Được sinh ra và lớn lên trong giáo xứ này, tôi muốn chia sẻ thêm về những quán phở ở Nghĩa Hoà. Sau phở bác Huyền, vào đầu thập niên 1970 có một tiệm phở nữa cũng trên đường Nghĩa Phát gần đầu nhà thờ. Còn theo đường Nghĩa Hoà phía cuối nhà thờ, đi vào đến ngã tư ông Nghìn có tiệm phở của ông giáo Chung.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.