Hôm nay,  

Nhà thơ Thiện Trí và thi tập Vạt Nắng Phù Hư

21/06/202509:00:00(Xem: 3458)

Nhà thơ Thiện Trí và thi tập Vạt Nắng Phù Hư
 

Nguyên Giác
 

Trong cõi đời thường, rất mực sôi động của thế giới muôn đời phân rẽ, và gay gắt hiển lộ trong các bản tin tôi dịch hàng ngày, đôi khi rời màn hình, tôi mở sách ra, đọc những dòng chữ của một nhà sư đang sống rất mực thơ mộng, như làn gió nhẹ buổi sớm. Những dòng thơ trong thi tập Vạt Nắng Phù Hư là một thế giới khác, không chỉ là khác với những tàn phá khốc liệt ở Ukraine với Gaza, thực tế không phải là một cõi nào trên mây, nhưng là một cõi tâm có sẵn trong từng người chúng ta.
 

Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
 blank

 
Tất cả những giông bão ngoài trời đều sẽ biến mất, khi tôi đọc những dòng tự sự của nhà thơ Thiện Trí trong tập Vạt Nắng Phù Hư, nơi trang 30, trích:

“Tôi là chú tiểu hồn nhiên

Vô tư vô lự sống yên bên Thầy

Tháng ngày đạm bạc tương chay

Sáng chiều chuông mõ bến đời nhẹ trôi.”(VNPH, trang 30)
 

Nhưng đừng nghĩ đạm bạc tương chay đó là những ngày vô ích. Chính sự hồn nhiên đó, những ngày vô tư vô lự đó, mới là hành trang vững vàng để vào đời. Bởi vì, bạn hãy tin rằng, bộ áo giáp tuyệt vời nhất cho người tu là sự ngây thơ hồn nhiên. Và cũng là thần thông nữa: có mấy ai mà chuông mõ sáng chiều đẩy cho được rất dịu dàng bến đời nhẹ trôi. Bởi vì khi người ta muốn đẩy cho trôi bến đời, là họ đẩy hung hăng, là họ phóng chạy táo bạo, và thực tế như thế là không phải bước tới, mà là đang đi lùi thêm vào cõi vô minh.
 

Tôi không thích những chữ như "thế giới thi ca" hay "khung trời thi ca" hay vân vân gì khác, vì nghe trầm trọng quá, bởi vì mình không phải là phê bình gia. Chưa bao giờ tôi có ý muốn đóng vai nhà phê bình, dù là trong cương vị nhà báo, tôi vẫn đọc và theo dõi các bài phê bình và những cuộc hội thảo về văn học, triết học, tôn giáo, và đủ thứ chuyện trên đời. Nếu đôi khi tôi gõ chữ có ý phê bình ai (thí dụ, chuyện bầu cử Hoa Kỳ) thì chủ yếu là nói sự kiện, hay ghi lời người khác. Trong cõi này, tôi không muốn làm tổn thương bất kỳ chút gì trong cuộc đời, cho dù là làm rơi đi một chút bụi của người. Do vậy, tôi yêu thương thế giới thơ của nhà thơ Thiện Trí. Đó là thơ để kéo người đọc về một mảnh đất tâm rất dịu dàng và thơ mộng có sẵn, mà chúng ta thường đi lạc  sang những cõi tranh chấp của đời thường.
 

Như hình ảnh hoàng hôn, trong buổi chiều tà. Tất cả chúng ta đều đã từng nhìn nhiều ngàn buổi hoàng hôn trong đời. Bây giờ mời bạn đọc không khí thơ và đạo khi nhà thơ Thiện Trí nói về hoàng hôn qua vài dòng văn rất thơ và rất đậm chất vô thường, như sau:
 

Không biết tự bao giờ mà trong tôi mỗi khi nhìn hoàng hôn thì lòng lại “nghiêng” cùng vạt nắng chiều tây…

Cũng vậy, khi nhìn dòng sông và thuyền trôi, tôi lại thấy bến bờ định mệnh của kiếp nhân sinh như: “bóng câu ngoài cửa sổ!” Vạt nắng vẫn sáng, vẫn hồng mà vạt nắng của hoàng hôn thì đậm màu sông quê trong tôi. Nó có một chút gì đó man mác chiều buông lơi…” (Facebook: Monk Thiện Trí)

 
Nếu bạn quan tâm về Thiền, bạn có thể đọc về các lớp Thiền trên trang Facebook: Monk Thiện Trí. Nhưng nơi đây, tôi muốn nói về thơ. Bởi vì thơ là cội nguồn đẹp nhất của thế giới chúng ta. Hễ nhạt bớt chất thơ, là mưa bom, lửa đạn bay tới tấp. Bạn có thể kinh nghiệm: bất kỳ lúc nào mình sân si nổi giận, bạn không thể viết được bất kỳ dòng thơ nào, cho dù là vài chữ gọi được là thơ. Bởi vì thơ là cái sự thật ẩn giấu trong đời thường. Thiền không phải là thơ, nhưng chỉ là một phương tiện giúp chúng ta nhận ra thực tướng của cuộc đời. Thí dụ, như đoạn văn trên của nhà thơ Thiện Trí, thơ là khi nhìn vạt nắng nghiêng của hoàng hôn mà nhận ra cái ẩn sau của buổi chiều là pháp ấn vô thường, là dòng sông trôi chảy liên tục trong thân tâm và kiếp nhân sinh.
 

Tập thơ Vạt Nắng Phù Hư dày 240 trang, khổ vuông, bìa cứng, in trên giấy dày có vân. Tranh bìa trước là hình ảnh vạt nắng trên một cây tùng và sân cỏ. Trang bìa sau là tranh vẽ một ngôi chùa và mấy dòng thơ trên mây, như sau:

Trăm năm, giấc mộng nghê thường

Trăm năm, vạt nắng còn ươm hạt đời

Sáng lên: sáng đất, sáng trời

Chiếu lên từ vạt sáng ngời phù hư!

---- (Vạt Nắng Phù Hư)
 

Một thói quen nhận ra: đôi khi nhà thơ Thiện Trí dùng chữ Hán Việt và điển tích. Thí dụ, dòng đầu bốn câu trên là chữ “nghê thường.” Ca khúc Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao cũng có lời nhạc nhắc chữ này: Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn... Truyện thơ Bích câu kỳ ngộ của văn học Việt Nam thời thế kỷ 19 cũng có câu: Vũ y thấp thoáng nghê thường thướt tha. Nghĩa là, xiêm y của các nàng tiên trên trời.
 

Chữ “phù hư” cũng là từ Hán Việt. Trong Lời Giới Thiệu, nơi trang 6 tới 9, do Thầy Thích Như Điển viết, trích như sau:

Trong tập thơ này có cả hàng trăm bài, Thầy Thiện Trí viết ở nhiều thể loại khác nhau như: lục bát, thơ tự do, thơ tự cảm, thơ Thiền v.v... đủ mọi thể tài. Nhiều khi Thầy ấy viết về những căn bệnh của thời đại COVID 19 hay những sự ra đi đột ngột của cố Hòa Thượng Thích Thái Siêu v.v... tất cả đều liên hệ đến sự vô thường sanh diệt của một kiếp người, một kiếp hoa, một kiếp phù sinh ví như cây cỏ, tuyết sương v.v... thật là tuyệt diệu.

Chữ Phù Vân (mây nổi) rất nhiều người dùng đến; còn chữ "Phù Hư" ít thấy ai dùng. Nếu giải rõ nghĩa thì đây chính là: Hư ảo nổi trôi cũng có thể được chăng? Nếu tra tự điển thì chúng ta có thể thấy thêm nhiều chữ bắt đầu bằng chữ phù như: Phù đồ, Thế, Phù Trần v.v...tất cả đều mang ý nghĩa là chẳng tồn tại lâu dài trên cõi thế.”
blank 

Tiểu sử của nhà thơ Thiện Trí ghi ngắn gọn nơi trang 2 của thi tập Vạt Nắng Phù Hư, trích như sau:

“Thầy Thiện Trí cũng là tác giả của hai tác phẩm bằng Anh Ngữ: Sharing From The Heart, Foundation Of Mindfulness.

Thích Thiện Trí tốt nghiệp cử nhân Phật Học tại Học Viện PG năm 1997-2001. Thầy định cư tại Hoa Kỳ năm 2002 và tốt nghiệp Thạc Sỹ Tôn Giáo Học (Master of Religious Studies). Năm 2015 đến 2019, Thầy mở trung tâm Thiền "Zen and Mind Family" tại bang Louisiana, TP New Orleans. Tại đây, Thầy đã được hai trường Đại Học Xavier và Loyola mời làm giảng viên môn "Kỹ Năng Thiền Phật Giáo" cho hệ đào tạo từ xa và hệ chính quy cho sinh viên đang học hệ cử nhân.

Hiện nay, Thầy Thiện Trí vừa tiếp tục ngành tiến sỹ tuyên úy Phật Giáo, vừa giảng dạy các lớp kỹ năng thiền tập cho người bản xứ qua hệ thống zoom và là khách mời thường xuyên cho các trường Đại Học cũng như hội liên Tôn Giáo tại xứ sở cờ hoa.” (ngưng trích)
 

Mấy đoạn tiểu sử trên nghe rất là công thức. Chúng ta có thể thông cảm, khi một nhà thơ (và là thiền sư) phải tự kể về mình. Thực ra, tôi ưa thích mấy dòng tiểu sử do thầy viết trong bài Am Mây Thiền nơi trang 10 và 11 của tập Vạt Nắng Phù Hư như sau:
 

Chiều nay gió đi vắng

Mây trắng rủ nhau về

Am thiền lưng chừng núi

Mây ngự thật bình yên

.

Thiền Sư cùng ngồi đó

Không đợi gió, đợi mây

Mắt thiền dường khép lại

Trông như pho tượng đài.”(VNPH, trang 10-11)
 

Tiểu sử có tính công thức kia vẫn không đầy đủ, vì từ lúc ấn hành tập thơ cho tới bây giờ, đã có những chuyển biến trong đời của Thầy. Hiện này, Thầy Thiện Trí đang ghi danh học bậc Tiến Sĩ ở Đại học University of the West (https://www.uwest.edu/) trụ sở ở California, và đồng thời hướng dẫn các lớp thiền tại đại học này. Có thể, khi bạn đọc những dòng chữ này, Thầy đã hoàn tất học vị mới này. Tuy nhiên, quan tâm lớn của Thầy Thiện Trí chính là độ mình và độ người. Chúng ta đọc thấy suy nghĩ của nhà thơ thiền sư này ở lời tự sự nơi trang 214:
 

Trong những ngày "dầu sôi lửa bỏng" của nạn dịch Covid-19 tại quê hương, hình ảnh Chư Tăng-Ni và nam nữ cư sĩ đã cùng nhau xắn tay áo lăn vào "cuộc chiến chống dịch" bằng cách đăng ký vào bệnh viện giúp đỡ các bệnh nhân, gom rau-củ-quả khắp nơi để giúp những người đang khốn khó. v.v...Nhìn những hình ảnh đó, tôi thấy lòng mình vui thật vui. Vì tôi nghĩ, lý tưởng giải thoát của những người "phát túc siêu phương" giờ thành những "Bồ Tát nhập thể" và hơn nữa chính họ "không sợ lây nhiễm" (chắc là nhờ năng lực tu tập và đủ tinh thần mạo hiểm) nên lăn vào cuộc chiến giúp đỡ những người khó khăn trong nạn dịch bùng phát này!

Cho tôi xin đầu thành đảnh lễ và cùng chung vui để góp phần "hoan hỷ" trong những hành động cao quý...” (Vạt Nắng Phù Hư, trang 214)
 

Chúng ta thường nghĩ về Thiền là cái gì nghiêm trọng lắm. Không, không hề nghiêm trọng. Với một tâm hồn rất mực hồn nhiên, bạn chỉ ngồi xuống, thở nhẹ nhàng là thấy Phật hiện ra liền, theo nhà thơ Thiện Trí giải thích, nơi trang 35, trong bài Đơn Giản Là:
 

Đơn giản là “hơi thở”

Tôi thấy hồn an yên

Thấy nụ cười Phật hiện

Thấy tôi... thật rất hiền

.

Thật vậy chỉ là thở

Thở trong và thở sâu

Thở vào tôi rõ biết

Thở ra nhận rõ liền. (VNPH, trang 35)
 

Phật hiện ra không chỉ trong hơi thở. Mà cũng hiện ra nơi bình hoa, trong tiếng chuông, hay khi nghe một câu kệ. Nhà thơ Thiện Trí gọi đó là Năng lượng khác, hoàn toàn xa lìa qua khứ và đau thương. Thầy giải thích về một lớp Thiền nơi trang 234, trích:
 

"Và các bạn biết không, chỉ cần tôi đặt trước mặt chúng tôi là một bình hoa tươi (dĩ nhiên là hoa thật) và một cái chuông nhỏ. Tôi mời các bạn ấy lắng nghe chuông. Tôi ngâm nga một câu kệ và chúng tôi thở những hơi thở trong, nhẹ, mát và đều... Khoảng 15 phút sau, tôi mời các bạn mở mắt ra thật nhẹ nhàng và mỉm cười với hoa cùng với tôi nữa. Thế là các bạn lập tức nhận ngay được năng lượng của tươi mát, của trong lành, của yêu thương và... một năng lượng tích cực ùa về. Năng lượng đó khác hẳn hoàn toàn với năng lượng của quá khứ, của đau thương, của thất vọng, của chán chường, của... nhiều vô số." (VNPH, trang 234)
 

Khi sống trong thế giới thơ mộng như thế, là phải cảm ơn thế giới của thơ, của hoa, của hơi thở, của chiều tà... Nhà thơ Thiện Trí, do vậy, đã viết nơi trang 33 như sau:
 

Cảm ơn ngày tháng truân chuyên

Cho ta hiểu chuyện không phiên, trách than

Cảm ơn hoa nở lại tàn

Cho ta thấu hiểu hợp tan lẽ thường. (VNPH, trang 33)
 

Có thể nói ngắn gọn về nhà thơ thiền sư Thiện Trí rằng, trong một cõi đầy bạo lực của thế kỷ 21, nơi hạnh phúc ẩn rất xa những cuồng nộ vô minh, nơi rất nhiều người nhìn mà không thấy và rất nhiều người nghe mà không nhận ra, những dòng chữ thơ mộng của Thầy đã trở thành ngón tay chỉ trăng, mời gọi chúng ta tỉnh thức và nhận ra một cõi bình an chưa từng xa lìa chúng ta.
 

Độc giả có thể liên lạc với nhà thơ Thiện Trí qua:

Tu Viện Phổ Quang

824 Sandy Lane

Fort Worth, TX 76120, USA

Hay điện thoại: 504-505-5887. Hay qua Email: [email protected]
 

Không phải sao, cuộc đời của mỗi chúng ta luôn luôn là một vạt nắng nghiêng, nơi đó tự thân chính là ánh sáng đang khởi dậy và cũng chính là những lụi tàn tự thân. Hãy nhìn thấy một thực tướng này, mỗi người chúng ta là một vạt nắng, và thế giới người trong cõi này là vô lượng vạt nắng đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang viết, đang thở, đang yêu thương nhau và kể cả đôi khi căm thù nhau. Tại sao vạt nắng này lại cố ý làm tắt vạt nắng kia, trong khi lẽ ra chúng ta có thể làm cho cõi này từ bi hơn, rực sáng hơn, khi vạt nắng này cười với vạt nắng kia, và cùng ngồi tụng Tâm Kinh để thấy đời mình và người cũng chỉ là những vạt nắng rỗng rang, vô tự tánh, rất mực là thơ.

.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh.
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self). Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Đây là một tác phẩm lịch sử từng giai đoạn của Quân Lực Việt Nam Công Hòa. Nhà biên soạn sử học Hồ Đắc Huân, đã miệt mài trong bao nhiêu năm, cô đọng, trau chuốt, giao tiếp với nhiều nguồn tin tức khác nhau, cộng với hành trình từ bản thân, là chứng nhân lịch sử; đã cho ra mắt một tác phẩm để đời!
Có Tự ngã không? Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ. Phật giáo không cho có cái gọi là Tự ngã, tiểu ngã, đại ngã, linh hồn, nhưng tin có “Nghiệp mang theo” để “trả quả”. Cái gì mang Nghiệp theo? Thần thức tái sinh, luân hồi?
Cuốn Hồi Ký dày khoảng 500 trang, khổ lớn, với phần biên tập và thiết kế sách của Trịnh Y Thư, phần thiết kế bìa của Nina Hòa Bình Lê, và gồm 7 phần chính, ngoài Lời Ngỏ và Kết Từ. Phần I, tác giả nhớ lại thời còn ở Hà Nội trước năm 1954 với bố mẹ và anh chị; Phần II kể về chuyến di cư đầu đời một thân một mình của cô gái 16 tuổi từ Hà Nội vào Sài Gòn, lập gia đình và những cơ duyên đưa đẩy vào ngành nghệ thuật điện ảnh Miền Nam trước năm 1975; Phần III kể chuyện lưu vong ra hải ngoại trong biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, làm người tị nạn Việt Nam đầu tiên tại Canada, với hai bàn tay trắng làm lại cuộc đời và những phấn đấu gian lao cực khổ để bước vào sân khấu điện ảnh lộng lẫy của Hollywood; Phần IV thuật lại những chuyện vinh quang trong sự nghiệp điện ảnh và những buồn vui của bản thân, gia đình, và những mối giao tình với bạn bè trong cuộc sống tại Hoa Kỳ; Phần V kể chuyện “đứng dậy, đứng thẳng, đi tới” sau những lần vấp ngã để trở thành nhà diễn thuyết khắp thế giới,
“Nước hiện cũng ở quanh tôi, quanh anh chị. Nó ở ngay trang sách này mà ta đang đọc. Ở trong màn hình tôi đang nhìn, trong bàn phím máy computer tôi đang gõ, ở trong cái áo cái quần tôi đang mặc, trong bức tranh trên trên tường…, kể cả trong cái đinh đóng trên đó. Tôi không thấy nó vì tôi ít khi chịu khó nhìn kỹ để thấy nó. Nhưng có điều bây giờ tôi biết rất rõ rằng: không có nước thì cái thằng tôi này cũng không có; không có nước thì cũng không có anh, không có chị ngồi đó mà đọc trang sách này. Cái bàn, cái ghế, cái cây, cái đám mây ngoài kia… cũng không tuốt.” (tr. 158) Không chỉ có vậy đâu mà còn nhiều nữa. Văn Công Tuấn, trong tác phẩm “Chớ Quên Mình Là Nước,” đã dẫn người đọc từ chuyện đất và nước trong đời thường, trong khoa học, trong văn chương tới chuyện đất và nước trong lãnh vực quốc gia dân tộc, từ chuyện đất và nước trong triết học với bản thể và diệu dụng của nước, bước sang chuyện lấy cơ duyên đất và nước để nói đến chuyện thực chứng tâm linh để giác ngộ và giải thoát
Tôi cố ý tìm tòi và trích dẫn nhiều ý kiến của Nguyễn Hiến Lê và cảm nhận về từng tác phẩm Nguyễn Hiến Lê của nhiều tác giả khác. Tôi rất mong được cung cấp càng nhiều thông tin, sự kiện, chi tiết liên quan đến tác phẩm càng tốt, để tiện việc tham khảo và nghiên cứu về Nguyễn Hiến Lê.
Kể từ tập thơ Vườn Dĩ Vãng ấn hành năm 1972 của thời trai trẻ phục vụ trong quân ngũ nơi quê nhà cho đến tác phẩm Hồi Sinh thực hiện năm 2020 nhưng vì trục trặc kỹ thuật, ấn hành năm 2021 nơi xứ người, nhà thơ Trần Văn Sơn đã trải qua cuộc hành trình từ những bài thơ xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60 cho đến thời điểm ấn hành tuyển tập nầy với thi ca hơn nửa thế kỷ.
Trong tuyển tập “Vằng Vặc Một Mảnh Lòng,” có nhiều bài rất giá trị mà cũng khó tìm, như bài “Lời Giới Thiệu Luận Án Tiến Sĩ Phật Học Đại Học Bihar - Ấn Độ, 1961 Của Tỳ Kheo Thích Minh Châu: So Sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán và Kinh Trung Bộ Chữ Pali do vị Viện Trưởng, Tân Tòng Lâm Nalanda S. Mookerjee viết vào ngày 23 tháng 3 năm 1964, và Thích Nữ Trí Hải dịch Việt. Hoặc như bài “Huyền Trang Và Công Cuộc Thỉnh Kinh Vô Tiền Khoáng Hậu Của Nhân Loại” của học giả Nguyễn Hiến Lê, và bài “Như Lai Vô Sở Thuyết” của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan.
Khi đọc bài “Bên Bờ Tử Sinh” của nữ văn sĩ Đỗ Dung thuộc Ban Điều Hành diễn đàn Minh Châu Trời Đông, tôi cũng thấy lòng nhẹ nhàng theo, tác giả bị căn bệnh hiểm nghèo bác sĩ nói chỉ sống thêm vài năm nữa, mà nhờ nhiếp tâm thiền định, chẳng những thoát khỏi cây cầu sinh tử mà tác giả còn sống yêu đời và trở thành một nhà văn với nhiều sáng tác đi vào lòng độc giả.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.