Hôm nay,  

Ra mắt tuyển tập: Cám Dỗ Tự Do Từ Góc Độ Triết Học và Tư Tưởng

07/07/202512:45:00(Xem: 5043)

Ra mắt tuyển tập: Cám Dỗ Tự Do

Từ Góc Độ Triết Học và Tư Tưởng
 

Phan Tấn Hải
 

Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
 

Buổi ra mắt tuyển tập nhan đề “Cám Dỗ Tự Do Từ Góc Độ Triết Học và Tư Tưởng” của Nguyễn Hữu Liêm hôm 4 tháng 7/2025 tại quán Coffee Factory ở Quận Cam, California thu hút một số bạn văn và thân hữu. Trong đó có Thầy Thích Nguyên Nguyện (giảng sư Đại Học Phật Giáo Sakya Buddha University), LS Nguyễn Quốc Lân (Chủ Tịch Hội Đồng Khu Học Chánh Garden Grove), Nguyễn Nam Quan (Nghị viên Westminster), Luật sư Cù Huy Hà Vũ, và các văn nghệ sĩ như Lê Giang Trần, Dương V. Tường, Nguyễn Vũ Nhã, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Thị Khánh Minh, Trịnh Y Thư, Phan Vũ Anh Nam, Trần V, Trịnh Thanh Thủy, Phan Tấn Hải... Đặc biệt, với truyền thống lơ đãng rất mực thơ mộng, nhà lý luận Bùi Vĩnh Phúc vài tiếng đồng hồ sau mới nhận ra là suýt nữa trễ 24 giờ, vì cứ tưởng là hôm sau (Thứ Bảy) mới là ngày hẹn ra mắt sách, may mà cũng liên lạc được.
 
blankTừ trái: Lê Giang Trần, Nguyễn Thị Khánh Minh, Thầy Thích Nguyên Nguyện, LS Nguyễn Quốc Lân, và đứng phía sau là, từ phải: Nghị viên Nguyễn Nam Quan, Trịnh Y Thư, Nguyễn Hữu Liêm và Luật sư Cù Huy Hà Vũ.

Để nhìn sơ qua mức độ gây tranh cãi của Nguyễn Hữu Liêm, chúng ta có thể đọc ngay các chủ đề, trong Mục Lục của tuyển tập, nơi Phần I là Văn Hóa & Nghệ Thuật, Nguyễn Hữu Liêm nhận định rằng nhạc Miền Nam trước 1975 và nối dài ra hải ngoại là “Âm nhạc tủi thân bi đát” (trang 29). Chưa hết kích động, anh lại có thêm bài khác nhan đề “Ba lần chết của nhạc Việt” (trang 52). Dù đồng ý với tác giả hay không, bạn có thể biết rằng sóng gió tranh luận sẽ bùng lên cả trong và ngoài Việt Nam, trong ba bài phản biện nổi bật là lý luận của nhà văn Trịnh Thanh Thủy qua bài “Đừng đổ tội oan cho nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam” (trang 33).
 

Trong Phần II là Tôn giáo, tác giả Nguyễn Hữu Liêm cũng gây sóng gió -- và chúng ta, những người quan tâm về văn hóa dân tộc, cần nghiêm túc đọc và suy nghĩ, và nếu cần thì mở ra những hướng suy nghĩ mới. Tất nhiên, bạn có thể thấy ngay rằng Vatican sẽ không đồng ý (phần lớn, hay toàn bộ) với bài viết nhan đề “Sự thật hay hư cấu huyền thoại: Chúa Jesus là Bồ tát hóa thân?” (trang 156)
 

Và tương tự, dĩ nhiên, rất nhiều Phật tử sẽ không đồng ý (nhiều phần) với Nguyễn Hữu Liêm với các bài viết, như “Tại sao Phật tử Việt nay theo Đạo Chúa?” (trang 191). Tương tự, những vấn đề nhức nhối Nguyễn Hữu Liêm nêu lên cần được suy nghĩ, như bài “Tính Không và Thượng Đế: Từ thoái trào Phật giáo đến cao trào Tin Lành ở Việt Nam” (trang 203), hay bài “Một lịch sử đã muộn: Vấn đề lịch sử giữa Phật giáo và Công giáo ở VN” (trang 227).

Tuy nhiên, chắc chắn gây sóng gió tranh luận vẫn là “Phần III. Chính Trị” của tuyển tập  “Cám Dỗ Tự Do Từ Góc Độ Triết Học và Tư Tưởng” (các trang 259-344).
 

Bất kỳ bài nào trong Phần này cũng sẽ gây tranh cãi, dễ dàng để chụp rất nhiều mũ cho tác giả Nguyễn Hữu Liêm. Nơi đây, xin liệt kê nhan đề các bài trong Phần III:
 

Làm người Cộng Sản Việt Nam có dễ không? -- trang 259

Có phải Tô Lâm Là một Trần Thủ Độ ngày nay? -- trang 266

Giữa nơi Đại Hội Việt Kiều: Một nỗi bình an -- trang 272

Logic Thương Tích gặp trí tuệ Nông Dân -- trang 279

AI và ảo vọng toàn năng: tương lai chính trị Việt Nam năm 2030 -- trang 285

Khi Hồ Chí Minh bước xuống thánh giá Cộng Sản -- trang 291

Nỗi lòng Ức Trai và Tố Như: Tâm tư TBT Nguyễn Phú Trọng -- trang 301

Trung quốc 75 năm và bài học cho Việt Nam -- trang 306

Bi Hài Kịch Việt Nam Hậu Cộng Sản -- trang 313

Khi tượng đài mất linh hồn từ góc độ Triết học -- trang 318

Vẫy tay gọi nhau làm Người: Về những bản án chính trị ở Việt Nam -- trang 323

12/12/1974: Trận Phước Long khởi đầu một cứu rỗi mới -- trang 328

Thập niên 1980-90 và phong trào Kháng Chiến Phục Quốc Hải Ngoại -- trang 333

Chiến tranh là da thịt Lịch sử -- trang 338
 

Than ôi, có quá nhiều đau thương để suy nghĩ về lịch sử quê nhà. Hiển nhiên là sách Nguyễn Hữu Liêm không thể in tại Việt Nam khi nhà nước CSVN còn kiểm soát toàn dân một cách toàn trị. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy nghĩ, tác giả Nguyễn Hữu Liêm có cần phải đào sâu nhiều vấn đề gây tranh cãi, rất khó hòa giải như thế không, trong khi nhu cần bức thiết hiện nay là một cuộc cách mạng nhung để đưa dân tộc chuyển sang chế độ dân chủ, mà không nhất thiết phải vạch ra những lằn ranh lý luận. Hay, phải chăng đó là sử mệnh của một triết gia như Nguyễn Hữu Liêm, phải đi dưới những trận mưa đạn từ hai bên dòng sông Bến Hải?
 

Tuyển Tập “Cám Dỗ tự Do từ góc độ Triết Học và Tư Tưởng” của Nguyễn Hữu Liêm dày 600 trang, bìa và dàn trang thực hiện bởi Lê Giang Trần, do Sống Publishing xuất bản, có thể tìm mua trên mạng Amazon ở địa chỉ:

https://www.amzn.com/B0FBWD7BB7

blank 
Bạn có thể liên lạc với tác giả Nguyễn Hữu Liêm ở: [email protected] .

 
Nơi trang 11, tiểu sử tác giả ghi như sau: “Nguyễn Hữu Liêm từng giảng dạy Triết học trên 20 năm tại San Jose City College, California. Hiện nay ông đang hành nghề Luật sư ở San Jose, California.

Một số sách tiêu biểu đã xuất bản: Dân chủ Pháp trị; Tự do và Đạo lý; Thời tính, Hữu thể, Ý chí; Sử tính và Ý thức; Phác thảo một triết học cho lịch sử thế giới; Cám Dỗ Việt Nam; Cám Dỗ Tự Do.

Ông là Chủ nhiệm sáng lập và Tổng Biên tập của Tạp chí Triết Học và Tư Tưởng (Tapchitriet.com).”
 

Tác giả giải thích như thế nào về tuyển tập này? Trong Lời Nói Đầu ở trang 25-26, Nguyễn Hữu Liêm viết như sau, trích:
 

“Xin mời quý độc giả bước vào những trang sách sau đây. Tuyển tập này bao gồm những bài viết tôi đăng tải ở nhiều diễn đàn suốt 30 năm qua trong nước cũng như hải ngoại.

Như tựa đề "CÁM DỖ TỰ DO - Từ Góc Độ Triết Học và Tư Tưởng", tôi viết lên suy tư của mình bằng tiếng Việt như một điều hoan lạc, và tư duy đó đã trở nên niềm cám dỗ. Đó là sự cám dỗ của Tự do, của học thuật, của ngôn từ. Một phần nào những bài viết thể hiện nỗi thao thức về quê nhà Việt Nam, từ một ý chí muốn biểu đạt tư duy, những suy ngẫm về các đề tài triết học liên quan đến vấn đề thời sự của thế giới và của Việt Nam.

Tuyển tập được chia làm sáu phần: (1) Văn hóa và Nghệ thuật, (2) Tôn giáo, (3) Chính trị, (4) Triết học, (5) Điểm sách và (6) Các bài viết về tác giả. Tôi nghĩ quý độc giả sẽ thưởng thức những bài viết ngắn gọn về các đề tài được diễn đạt từ góc độ triết học và tư tưởng. Hầu hết bài đều phân tích và phê phán chủ đề, từ bình diện học thuật với những tầng khái niệm khác nhau; tuy rằng, trong phần Văn học và Nghệ thuật có những quan điểm mang tính chủ quan và khiếm diện, nhiều khi mâu thuẫn. Vì vậy, khi đọc tác phẩm này, nếu có sai sót nào, tôi mong người đọc có thể nghiệm thu từ những gì sai lầm của tác giả hơn những gì đúng đắn. We learn much from the other's mistakes rather than truths.

Năm trước, một bản thảo tuyển tập này đã được gởi xin giấy phép xuất bản ở Việt Nam nhưng bị từ chối vì nội dung không thích hợp theo đòi hỏi chính trị trong nước. Dù sao, đây có lẽ là cuốn sách cuối cùng tôi xuất bản ở hải ngoại. Cũng có thể tôi sẽ còn viết tiếp với đề tài "Sự cáo chung của triết học" như được đề nghị bởi một học giả thân hữu. Nhưng lực có tòng tâm hay không, là chuyện khác.

Ở Việt Nam khi tôi học đến lớp 11 thì phải rời nhà trường gia nhập quân ngũ lúc chưa tròn 17 tuổi. Đến Hoa Kỳ lúc 19 tuổi, vì vậy tiếng Việt của tôi hầu hết được hình thành ở xứ Hoa Kỳ này. Dù vậy, tôi vẫn cố gắng xây dựng một nền triết học Việt ngữ hơn 30 năm qua. Nhưng đây là một nỗ lực ngược dòng. Số phận triết học tiếng Việt ở hải ngoại ngày nay sẽ còn long đong lắm.

Ở đây, hiện tại nói chung, người Việt hải ngoại ít còn ai tìm đọc sách tiếng Việt. Đối với quý vị nào đọc những trang này, quý bạn là một con số rất nhỏ trong cộng đồng dân cư gốc Việt. Tôi xin ngả mũ đa tạ.

San Jose ngày 16/4/2025

Nguyễn Hữu Liêm” (ngưng trích)

.

Trong tuyển tập, nổi bật về sóng gió tranh cãi là bài “Âm Điệu Tủi Thân, Bi Đát” trong đó Nguyễn Hữu Liêm ghi chú rằng “Đây là bài viết gây tranh luận nhiều nhất trong các diễn đàn báo chí và tư tưởng của cộng đồng tiếng Việt ở hải ngoại trong năm 2003. Từ diễn đàn talawas ở Đức, Đàn Chim Việt ở Ba Lan, BBC ở Anh quốc cho đến các đài RFI và đài Tiếng nói Việt Nam ở trong nước cũng đã cho đọc bài này và các phản ứng liên hệ. Báo Ngày Nay ở Houston, Texas đã mở một loạt phỏng vấn các nhân sĩ Việt Nam ở hải ngoại để phản bác. Riêng tại San Jose, California, 60 hội đoàn người Việt địa phương đã họp lại để tố cáo tác giả là "đặc công trí vận cộng sản" - cũng một phần vì bài viết này. Riêng hai báo Sàigòn Nhỏ ở Orange County, California và Thời Báo ở San Jose đã chọn tác giả là "Người của năm 2003" (Man of the Year) cũng vì từ những phản ứng về bài này.”
 

Và ngay đoạn đầu của bài, Nguyễn Hữu Liêm đã viết: “Nếu có một sắc điệu văn hóa nào rất đặc thù cho người Việt hải ngoại, đặc biệt là ở Mỹ, thì đó là cái bản chất âm nhạc. Loại tân nhạc được đem theo từ miền Nam trước 1975 qua đây và vẫn cứ tiếp tục là một dòng âm nhạc bi đát, yếu đuối, trống rỗng và băng hoại.” (trang 29)
 

Xin mời bạn đọc lại rất chậm: Loại tân nhạc được đem theo từ miền Nam trước 1975 qua đây và vẫn cứ tiếp tục là một dòng âm nhạc bi đát, yếu đuối, trống rỗng và băng hoại...
 

Nhà văn Trịnh Thanh Thủy không đồng ý, đã viết bài trả lời nhan đề “Đừng đổ tội oan cho nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam” (trang 33) trong đó, phản hồi, trích:

Thoạt mới đọc bài viết tôi thấy ông Liêm có lý khi nhận xét âm nhạc Việt Nam ủy mị, yếu đuối và bi thảm. Nhưng suy nghĩ sâu hơn, càng lâu tôi càng thấy nhiều điều nghịch lý trong sự suy luận và quy kết của ông Liêm... [...]

... Như vậy theo tài liệu thu thập được, Nhạc Chàm đã du nhập vào VN từ lâu và ảnh hưởng từ đời Lý chứ có phải từ đời Nguyễn như ông Liêm khẳng định đâu. Sao Ông Liêm không phê bình miền Bắc ảnh hưởng nhạc Chàm? Nếu bảo rằng miền Nam vì ảnh hưởng nhạc chàm là dân tộc bị vong quốc thì ông Liêm giải thích sao về việc nhạc Chàm đã có từ đời Lý Thánh Tông (1060) trong khi tới đời Trần Thái Tông (1225-1258) vua Trần mới bắt đầu đánh Chiêm Thành vì họ thường sang An Nam cướp phá. Đến đời Lê Thánh Tông (1460-1497), vua Lê mới hoàn toàn chiếm Chiêm Thành và dân Hời mới thật sự mất nước. Như vậy khi nhạc Chàm du nhập vào VN, người Hời chưa mất nước và mãi 400 năm sau họ mới vong quốc thì cái tính yếu đuối của dân tộc vong quốc không lẽ đã có từ hàng bốn trăm năm trước?

Suy luận theo kiểu ông Liêm thì Ấn Độ là nơi xuất phát ra loại âm nhạc Champa, thì trước sau gì họ cũng mất nước!

Âm nhạc truyền thống VN mang một bản sắc riêng biệt. Nó có cái âm điệu buồn bã nghiêng về triết lý nội suy, cố gắng chắt lọc chất tinh tế nhất của con người để tìm hiểu những bí mật tâm linh. Nó không giống như nhạc phương Tây luôn đi tìm bên ngoài với chất sôi động, vui tươi. Tính buồn bã, ủy mị nặng phần tâm linh ấy không chỉ âm nhạc VN có, các nền âm nhạc Đông phương đều có. Tôi đã được xem những vở nhạc kịch cổ truyền (Japanese Opera) của người Nhật. Tiếng đàn The Japanese harp (Koto) xen lẫn với giọng hát nức nở, buồn thảm của người nghệ sĩ Phù Tang, tạo người nghe một tâm thức, cảm hoài, ai oán. Khi qua Thái Lan tôi cũng được chứng kiến những điệu múa cổ truyền và tiết tấu cổ nhạc Xiêm La. Âm điệu của nó rất gần gũi với loại nhạc Cung đình Huế. Nét ủy mị của nhạc cổ truyền hầu như bàng bạc trong âm nhạc Đông phương.

Âm nhạc là hơi thở, tiếng nói, tâm sự, nghệ thuật, niềm vui, nỗi an ủi, phút giây tiêu khiển để con người quên đi những áp lực nặng nhọc của đời sống tất bật cơm áo. Người VN hát để nhớ, để quên, để cảm hoài, giải trí và để thấy tâm hồn mình vằng vặc trong âm điệu tiết tấu quê hương...

... Khi ra hải ngoại người di dân mang theo nhiều thứ. Họ cố gắng hòà nhập vào văn hóa xứ người và nếu cố gắng giữ được bản sắc dân tộc, tôi nghĩ đó là điều đáng quý. Bảo tồn âm nhạc truyền thống là điều đáng làm và nên khuyến khích. Ông Liêm chỉ trích âm nhạc Việt Nam làm hệ thống chính trị suy đồi đưa đến hệ quả mất nước. Thật tội nghiệp cho nền âm nhạc Việt Nam không dưng mang danh tội đồ lịch sử một cách oan uổng.”(trang 33-40)
 
blankTừ trái: Thầy Thích Nguyên Nguyện (giảng sư Đại học Sakya Buddha University) và nhà báo Phan Tấn Hải.

Bây giờ là lúc để nhìn lại một phần lịch sử âm nhạc. Có một phần ảnh hưởng rất lớn trong các khuynh hướng âm nhạc Miền Nam Việt Nam trước năm 1975: nhạc Du Ca từ những năm 1960s của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và các nhạc sĩ trong Phong trào Du Ca hoàn toàn không có yếu tố ủy mị, yếu đuối. Bạn có thể vào Google hay YouTube và gõ nhóm chữ “Phong trào Du Ca Việt Nam” hay “Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang” và bạn sẽ thấy một thế giới âm nhạc rất khác, mà hiện nay nhà nước CSVN vẫn còn cấm phổ biến.
 

Nhìn chung, bất kể các phiến diện trong cách đặt vấn đề, tuyển tập của Nguyễn Hữu Liêm đã thành công trong việc nêu lên các vấn đề cần suy nghĩ cho những người quan tâm tới hướng đi của dân tộc.

 

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.