Hôm nay,  

Nhà Thơ Công Giáo Lê Đình Bảng & Kinh Cầu Mùa

10/10/202500:00:00(Xem: 1542)

NHÀ THƠ LÊ ĐÌNH BẢNG 1
Nhà thơ Lê Đình Bảng

Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...

“Kinh Cầu Mùa” thi phẩm thứ 25 của ông, gồm có 68 bài thơ, với bút pháp và đề tài quen thuộc, nhiều ấn tượng về hình ảnh và đức tin của những người Công giáo thuần thành, đã để lại những rung động và cảm nhận tốt đẹp trong lòng những độc giả yêu mến thơ, không phân biệt lương, giáo...

“Kinh cầu mùa”, trong nếp sống đức tin của người Công giáo, được ông trân trọng, dùng làm tên tựa đề cho thi phẩm, và cũng là tựa đề của 2 bài thơ trong thi tập. Đó cũng chính là những lời cầu nguyện trong các mùa phụng vụ của Giáo hội, với ý nguyện chuẩn bị tâm hồn sám hối, cầu xin ơn Chúa cho xã hội và cuộc sống... Ta hãy lắng lòng nghe ông khấn nguyện:

 “ Lạy Mẹ, lạy Cha, Non cao, biển cả
 Bốn phương trời, mười phương đất bao dung
 Con lạy vong linh đồng bái, rẫy rừng
Gặp ai, cũng thấy dè chừng, ngờ vực”
 
 “ Thấy như mình đang làm theo vô thức
Cũng cách ly, cũng rào trước, đón sau
 Cố gượng vui, cho đủ cả sắc màu
Dịch từng ngày, đang diễn ra phức tạp...” (Kinh cầu mùa 1)

Vì sao vậy? Điều gì xảy ra, khi nhà thơ đã khẩn thiết?:

 “ Quê hương ơi có điều chi gấp gáp
 Hỏi vì sao, trâu chậm, uống nước bùn
Họ coi mình như nước lã, người dưng
 Mưa đều khắp. Sao quê mình hạn hán?” (Kinh cầu mùa 1) và tác giả đã tự trả lời:

 “ Em có yên thân ở nơi di tản
Hẹn ngày nào về? Mùa nắng? Mùa mưa?
 Mình chờ nhau vào giữa lúc ban trưa
Dưới chân Đức Mẹ Hòa Bình, Em nhé...
... Em bảo tôi, đây là bờ, là bến
Là chốn nương thân yên ấm một đời.”

Bìa KINH CAU MUA,
Bìa Kinh Cầu Mưa
Với một bài thơ “ Kinh cầu mùa” khác trong tập, ở thể loại thơ lục bát truyền thống, cùng với chủ đề chính của thi phẩm, thi sĩ Lê Đình Bảng đã lồng trong lời nguyện cầu “mùa”:

“ Ai về phương ấy xanh rì
 Và ai ra ngóng tà huy, chợt buồn
 Lạy trời cho lúa trên non
Vẫn xanh tươi lá và xôn xao cành...” ( Kinh cầu mùa), và một tình yêu thánh thiện, nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, cùng lòng tin yêu cuộc sống, hãy nghe ông “thì thầm”:
 “ Lạy trời, mưa cứ vây quanh
Để Em cuống quýt đợi mình ngoài hiên
Tôi chong đèn, thức thâu đêm
 Khi đong đưa hát, khi mềm mại ru”.
 
Và: “ Phải chăng, lòng kẻ đương yêu
 Em tôi còn có trăm điều viển vông...” để rồi:
 
 “Hai người, một mái nghiêng che
Tiếng chuông thiêm thiếp bên kia giáo đường
 Hồn tôi, con vạc kêu sương...” (Kinh cầu mùa).

 Một chút buồn lắng đọng, bâng khuâng và cả... vu vơ, của người tình si?

Là một thi sĩ Công giáo, một “tác giả có thế giá”, như trước đây Ban văn hóa Giáo phận Xuân Lộc đã nhận định. Thi sĩ Lê Đình Bảng đã dành cả cuộc đời mình, “thi hóa” đức tin tôn giáo thành những bài thơ đi sâu vào lòng người, đó là những thi khúc:

 “ Tháng giêng, về Long Beach. Phút hiển linh. Kinh cáo mình. Xin Mẹ chữa lành. Lễ vượt qua. Về bến bờ nào, Chúa ơi. Nơi hành lang nhà Chúa v.v...” trong tập. Độc giả dễ dàng bắt gặp những câu thơ tràn đầy cảm xúc thi ca, song cũng đầy đức tin ân phúc, như :

 “ Chào em nhé, tháng giêng về Long Beach
 Từng lũ chim non vừa mới ra ràn
 Cali, vẫn chiều vàng, nắng chói chang
 Có hơi ấm, biển bờ Tây rất nhẹ...
 Ơi cô gái, mang dầu đèn, đi lễ/ ...
Chiều, ngang qua tượng Đức Mẹ Ban Ơn
 Ta đứng đợi một mình, câu kinh muộn...” ( Tháng giêng, về Long Beach), hay như:

 “ Cái nhớ xứ người, cũng thèm, cũng vụng
 Dọn mình đi Em, xưng tội đầu năm
Mai, mưa mùa về, trở lạnh căm căm
 Ta núp kín ở sau lưng Đức Mẹ” (TGVLB), rồi những hình ảnh lam lũ, thực dụng, tốt, xấu, đời thường:

“ Kẻ trộm, đang đêm, khoét ngạch, đào tường”, “ người đàn bà đẻ đau, mang nặng”, “ gã nhà quê gặt hái, phơi phong”, “Khói đốt đồng, mùa lúa mới, vui mở hội...”.

 Tất cả đều như có bàn tay xếp đặt của đấng tạo hóa trong bài thơ “Kinh cáo mình”, lời thơ hồn nhiên, giản dị nhưng cũng đầy minh triết của niềm tin:

 “ Việc của Chúa, Chúa làm, nào ai biết
 Bởi thiên nhiên là bàn tiệc ê hề
 Dọn bày ra cho ăn uống thỏa thuê
 Để nếm trải đủ ngọt bùi thế sự” (KCM).
Lê Đình Bảng, bên cạnh niềm tin tôn giáo, ông còn hiện thân là một nghệ sĩ, với một tâm hồn thấu cảm, khi vận nước, quê nhà biển dâu, hoán cải, đành chấp nhận kiếp ly hương đầy thương xót:

 “ Nửa vòng trái đất xa khơi
Chúng con khẩn khoản dâng lời kêu van...”. Vì bởi:

 “ Ngày mai, đôi ngả, đôi đường
Quê hương con vẫn quê hương mịt mờ...”( Xin Mẹ chữa lành). Đó là:

 “ Nỗi nhớ mang tên Sài Gòn, Hà Nội
Cầu xin trời cho bão lũ mau qua
 Làm ơn hái dùm ta một chùm hoa
Và đặt dưới chân Mẹ, lời khấn nhỏ...” (Thư nhà).
Bên cạnh sự ly hương là tình “hoài hương” đau đáu, trĩu nặng, luôn khiến tác giả trăn trở với “ Thưa Mẹ, con không về kịp lễ”, Lê Đình Bảng viết:

“Thưa Mẹ, con không về kịp lễ
Bao năm đằng đẵng, những đêm dài
Vời trông mây trắng về phương nớ
Nguyện một lời kinh mỗi sớm mai
 
Xa Huế, xa một miền đất hứa
Thương chi, thương lạ, cứ thương hoài
La Vang, Quảng Trị, chừ mưa nắng
Đường đất đi về, ai vắng ai?”

Điệp khúc “ Thưa Mẹ, con không về kịp lễ” luyến láy đến 7 lần trong một bài thơ, như nỗi nôn nao, sốt ruột, mong về của người xa xứ, càng khiến bạn đọc thêm đồng cảm với ông, mà cùng ông:

“ Đành thôi Em, dỗ dành cơn đau
La Vang, đêm trắng, đêm không ngủ
Thắp nến lên, canh thức, nguyện cầu...” (TM,CKVKL)

Cái rưng rức khổ đau, của người ly hương, theo ông là:

“ Bởi có lúc, đành im hơi lặng tiếng
Để tập nghe, tập nói giọng nước ngoài
Lại một lần, phải hóa kiếp lão Lai
Sống là sống, mượn linh hồn người khác...” (Xuân ở một miền quê khác)

Người thi sĩ ấy, nhớ, và nhớ nhiều thứ:

“ Cái ổ rơm, bờ duối dại, đường đê
Và hết thảy những gì đang tàn lụi...
 
Nhớ nồi nước xông, vỏ bòng, vỏ bưởi
Bếp liu riu, bồng gạch đỏ riêu cua
Quê hương ơi, trong ngọn gió đầu mùa
Nắm lá thuốc, mẹ sao vàng hạ thổ!” (XƠMMQK)

“Hoài hương”, hoài hương! Ai xa xứ mà không nặng lòng khắc khoải? Cám ơn thi sĩ đã nhắc nhớ cho mọi người...
Và người thi sĩ ấy đã không mềm yếu, nhận ra những điều từ chữ nghĩa:

 “ Phải biết giữ, để bút không cạn mực
 Phải hà hơi, để ngôn ngữ có hồn
Uống từng lời vàng, trong mỗi dụ ngôn
 Những va chạm thấm sâu vào chữ nghĩa” (Giữa những vòng gai).

 Phải chăng đó cũng chính là nghệ thuật thi ca của thi sĩ Lê Đình Bảng? Có cả những điều bất diệt:
 “ Thơ, có cả muôn chiều từ thiên địa
 Ẩn mình trong ngóc ngách của linh hồn” (GNVG)...

Còn nhiều, nhiều nữa những dụ ngôn và minh triết trong ngóc ngách linh hồn ông, một cây viết già dặn, sâu sắc, một “Đức ông” của nghệ thuật thi ca Công giáo...Và xin mời, những độc giả yêu mến, quí trọng ông, thi sĩ Lê Đình Bảng, hãy cùng khám phá...

Trần Hoàng Vy
Katy, TX, October, 2025 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.
Khi giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả đặc biệt quý mến anh, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của ĐHN, có lần tỏ bày: “... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.