Hôm nay,  

Ca Khúc Tháng 9: The Autumn Leaves

26/09/202105:52:00(Xem: 7531)
blank

  

Bài hát The Autumn Leaves được sinh ra hơn nửa thế kỷ qua từ năm 1945 bên Pháp và đã được hát bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau bởi nhiều tiếng hát nổi tiếng khác nhau trên thế giới.
Âm điệu và ngôn ngữ của bài hát thật giản dị nhưng khi hát,mỗi người ca sĩ đểu có một rung cảm khác nhau.
Dù cho đó là những rung cảm tình ca nhớ nhung lãng mạn của tỉnh yêu nhưng thật nhiều hay thật ít, thật mỏng hay thật dầy, mỗi ngôn ngữ và dân tộc trong âm nhạc nếu mà đem ra so sánh đối chiếu với nhau thì thật là một điều không thực tế và không nên làm.
    
Eva Cassidy là một ca sĩ giọng Soprano và nhạc sĩ Guitar khá nổi tiếng khi còn sống và hay hát cho những quán nhạc nhỏ ở địa phương như Blues Alley, Washington DC.
Bên cạnh dòng nhạc Jazz, Blue music, Pop, Gospel, những bài hát trình diễn thường ngả về nhac dân gian Folk songs của Hoa Kỳ nhiều hơn là nhạc thời trang.
Eva thọ 33 tuổi và mất vì skin cancer ngày Nov 2, 1996.
Khi Eva qua đời, đĩa hát và giọng hát của Eva bỗng nổi bật hơn là lúc còn sống nhất là ở bên Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan.
Với 3 CD nhạc tuyển và 1 CD 1 bài đã từng đứng Number-One ở Anh, số CD đã bán ra được hơn 10 Million đĩa lan khắp các nước Úc, Đức, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Na Uy ở Âu Châu.
   

Trong dòng nhạc CD của Eva, sau khi nghe hết kể cả những bài hát lạ và quen thuộc, tôi chọn được ra bài hát sau để gửi giới thiệu đến các bạn.
Lý do đã giúp tôi chọn là tiếng hát nồng nàn đầy hơi ấm và mạnh mẽ của Eva, phần quan trọng chính là những xúc động của Eva trên đôi mắt, trên khuôn mặt và ở đôi môi khi trình diễn và thu hình Live.
Tôi đã nghe và tôi đã xem bài hát quen thuộc này từ những ca sĩ khác cả chục năm nay rồi nhưng từ Eva, lần đầu tiên, tôi thực sự đã sống và rơi hẳn vào không gian của Eva, với hình ảnh của Chiếc Lá THU Rơi qua nét phác họa của Eval bằng âm nhạc.
  
Với tôi, khi người ca sĩ và nhạc sĩ làm được điều này, họ đã hóa thân trở thành một người họa sĩ tài ba thực sự.
Họ đã vẽ ra được hình ảnh hay câu chuyện rồi truyền hình ảnh câu chuyện đó cho người nghe để được nhìn thấy dù không trọn vẹn hay thiếu mầu sắc rực rõ nhưng đôi khi, có thể làm rơi nước mắt người nghe khi câu chuyện của hình ảnh họ kể ra bằng âm nhạc.
 
Không phải ca sĩ nào cũng làm được chuyện này.
Rất xúc động và ngây ngất lặng im lắng nghe từng chữ, từng câu, từng nét mặt, từng bờ môi, từng ánh mắt, từng hơi thở, từng note nhạc và từng tiếng đàn đệm của Eva.


Nó không mầu mè bóng gió và lãng mạn như ngôn ngữ Việt Nam nhưng chính dòng nhạc đơn giản và sự trầm mình sâu trong tiếng hát của Eva đã làm cho tôi chìm sâu và nhìn thấy được chiếc Lá THU rơi thật sự bên ngòaì khung cửa sổ của mùa Thu ở một nơi, chỉ có trong tưởng tượng của mình vì thật sự ra, tôi chưa bao giờ được ngồi nhìn qua khung cửa để thấy mùa Thu tận mắt trong đời.
 
Cuộc sống đã trở nên lãng mạn hơn, đẹp đẽ hơn, nhân ái hơn, nồng nàn hơn và yêu thương loài người nhiều hơn cũng nhờ những người nghệ sĩ này .
Họ đã làm đẹp cuộc đời , làm dịu nỗi đau, làm tan giông bão, làm phao cứu vớt và là nguồn an ủi cho những ai cần đến.
Từ những suy nghĩ đó, tôi đã dành
những giây phút lặng im thưởng thức dòng nhạc tiếng hát của họ với một tấm lòng trân trọng quý mến họ thật sự.
 
Trong tâm tư này , Eva Cassidy đã đưa tôi quay về với tiếng hát không quên của Lệ Thu.
Giờ sắp vào Thu, tiếng hát Lệ Thu đã khép lại vĩnh viễn vào ngày Jan 15, 2021, sau 76 năm ở trần gian.
Tôi đã ngồi viết ra được 2 bài thơ xúc động cho 2 người ca sĩ vắn số : Eva Cassidy và Lệ Thu.
1 trong 2 bài đó là đoản văn thương tiếc, không biết có thể gọi là thơ được không?
Tôi xin tự gọi đó là Thơ, thơ tự do dù biết mình không phải là thi sĩ và chẳng bao giờ làm thơ cả.
 
Xin gửi đến các bạn để chia sẻ và nhất là để tưởng niệm giọng hát Lệ Thu, người ca sĩ duy nhất tôi yêu thích vô cùng.

Trong suy nghĩ mong muốn, tôi sẽ cố gắng đưa 1 trong 2 bài thơ đó vào âm nhạc trước ngày giỗ đầu của Lệ Thu.

Cám ơn các bạn đã đọc và hy vọng sẽ yêu thích Eva Cassidy trong bài hát The Autumn Leaves.
“”””
.
Xin để riêng tặng hai người bạn viết nhạc của tôi:
- anh Nguyên Bích
- anh Phạm Anh Dũng.

.

Chiếc Lá THU Rơi
Thơ: Nguyễn Ngọc Phúc

Để tặng Lệ Thu.

Tiếng hát lát vàng mầu kỷ niệm.
.


Qua khung cửa sổ

Vàng Lá THU Rơi

Thấp thoáng

Tóc bay theo từng tiếng hát

Của một người

Giờ đã trở về cùng cát bụi

Nhưng vẫn hát

Cho tình yêu và nỗi nhớ

Để kéo mảnh hoàng hôn

Từ vực sâu đứng dậy

Để từng chiếc lá rơi

Lát vàng mầu kỷ niệm

Và bước nhẹ thật nhẹ

Vào giấc mê của mặt trời

Đang lịm dần trong bóng đêm

Chiếc lá THU rơi.

.

Eva Cassidy - Autumn Leaves

https://youtu.be/xXBNlApwh0c

.

.
THU ĐÃ RƠI

Thơ: Nguyễn Ngọc Phúc.

09/25/2021

  

Từng mỗi Thu Rơi

Chơi vơi tiêng hát

Úa cả̉ hôn hoàng

Lịm tắt bình minh

 

Chờ từng cánh chim

Mang tin hanh phúc

Nhả khúc nồng nàn

Phủ nôĩ quạnh hiu

  

Trên vùng cô liêu

Miên man nôĩ nhớ

Lât trang thư cũ

Ấp ủ dâú xưa

  

Xin với trăng sao

Che đêm cằn côĩ

Bình minh hờn dôĩ

Sẽ bước quay về

  

Thắp lại lời thề

Giã từ cơn mê

Tìm nụ hôn xưa

Ghi trên trời tím

  

Một thời cuống quýt

Ôm trái tim non

Có còn vết son

Hay đã phai tàn

 
Thank you.

Phil Nguyen
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sài gòn ơi đường phố vắng không người Vào những ngày cơn ác mộng khôn nguôi Tôi muốn nói về một niềm hy vọng Niềm tin yêu và hy vọng đời đời
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số thân hữu có giới hạn.
Sài Gòn đại dịch, những con đường vắng ngắt, những con hẻm buồn tênh, những mặt người sầu lo. Quán xá hoang vu, chợ búa im lìm, thành phố phong tỏa rồi. Dòng người nghẹn ngào, lìa xa thành phố, tìm đường về quê, nương náu với người thân, ước mong trở lại khi dịch cúm không còn. Nhưng anh còn em, đôi ta còn nhau, ta yêu Sài Gòn bao mùa mưa nắng, ta thương Sài Gòn năm tháng vẫn hiên ngang. Vững tin quê hương lướt qua cơn đại dịch.
Có một sự kiện rất lý thú là trong Kinh Phật kể chuyện một hôm, lúc Đức Phật còn tại thế, các nhạc thần Càn Thát Bà (Gandharva) đã đến chỗ Đức Phật và tấu nhạc để cúng dường Ngài và Đại Chúng. Nhạc của những nhạc thần này hay và sống động đến độ nhiều vị đệ tử của đức Phật cũng bị lôi cuốn và đứng dậy nhảy múa theo tiếng nhạc dù chỉ là giây lát. Sự việc này cho thấy rằng từ thời Đức Phật vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch âm nhạc đã xuất hiện trong các pháp hội, các sinh hoạt của thất chúng đệ tử Phật.
Anh bạn thi sĩ, Nguyễn Bá Trạc, cho tôi một lời khuyên, khi mới vừa bước chân vào xóm văn chương. Anh nói: -“Ai khen mình, dù không đúng, cũng vui. Nếu khen đúng, lại càng vui hơn. Ai chê mình, dù không đúng, cũng buồn. Nếu chê đúng, lại càng buồn hơn.” Thật là chí lí. Tôi có hàng trăm kinh nghiệm về chuyện này. Trong các loại chê, lời vợ chê là đau đớn nhất, lưu trữ lâu dài nhất, thông thường là đúng nhất. Nếu biết sửa đổi những gì vợ chê, những người đàn ông đó đều trở thành thiên tài. Còn lời vợ khen thì sao? Đề phòng, sắp tốn tiền.
What the Horse Eats, tựa đề tiếng Việt là Trong Bụng Ngựa, là vở opera kể một câu chuyện có thật xảy ra thời Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1945. Ở những làng quê miền Bắc, những cái xác trơ xương nằm vất vưởng ngoài đường. Người ta, cũng là những bộ xương còn sống còn đi được, gom xác chết chất lên xe cun cút đem chôn tập thể. Cả làng tiêu điều như thành phố ma. Hơn hai triệu người Việt Nam đã chết đói. Dân số vào thời đó là 18 triệu. Chiến tranh, nạn đói, chế độ thực dân dồn ép con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và tình thương cho con. Một anh chăn ngựa lo lắng cho gia đình, đặc biệt là đứa con mới chào đời. Anh phải nhận lời làm không công cho viên Đại Uý Nhật, chăm nom con Ngựa Trắng quý của ông ta, cùng lúc anh mang trong đầu một tính toán táo bạo. Người vợ của anh thì đang vật lộn với trách nhiệm và tình thương của người mẹ, chỉ biết gắng gượng nuốt rễ cây. Hai vợ chồng cố gắng sống mòn trong danh dự. Cuối cùng, cùng đường, họ đành chấp nhận
Trầm Tử Thiêng đã hiến trọn một đời cho âm nhạc, ông được hàng triệu người thương yêu mến mộ. Kho tàng nghệ thuật của ông là 200 ca khúc tình yêu, thân phận, quê hương và chiến chinh. Hành trình sáng tác cũng như tác phẩm của Trầm Tử Thiêng gắn liền với thời cuộc của đất nước và mối tình của chính cuộc đời ông…
Không hiểu vì lý do gì mà nhạc sĩ Lan Đài sáng tác nhiều ca khúc mang nỗi buồn man mác xa xôi trong khi nghề nghiệp và tình yêu với cuộc sống cũng là niềm ước mơ của nhiều người. Trong thời gian qua, tôi đã viết nhiều về thơ văn nơi phố cổ Hội An, càng về già càng nhớ nơi chốn với bao nhiêu kỷ niệm của thuở học trò. Hai đêm qua, tôi nghe lại những ca khúc của nhạc sĩ Lan Đài và viết những dòng nhạc về ông với niềm thương cảm.
Trong hồi ký, Bejarano kể rằng việc bà được cứu bởi các binh sĩ Hoa Kỳ là những người đã cho bà cây đàn accordion, mà bà đã chơi vào ngày binh sĩ Mỹ và những người sống sót của trại tập trung nhảy múa chung quanh tấm hình bị đốt cháy của Adolf Hitler để ăn mừng Đồng Minh chiến thắng Đức Quốc Xã. Bejarano đã di cư tới Do Thái sau chiến tranh và lập gia đình với Nissim Bejarano. Cặp vợ chồng này có 2 người con, Edna và Joram, trước khi trở về Đức vào năm 1960. Sau một lần nữa chống chủ nghĩa bài Do Thái công khai, Bejarano quyết định hoạt động chính trị, đồng sáng lập Ủy Ban Auschwitz vào năm 1986 để giúp những người sống sót nền tảng cho những câu chuyện của họ.
Steven Spielberg, người viết truyện mà bộ phim “The Goonies” dựa vào đó để đóng, nói với Variety rằng Donner là “thiên tài về rất nhiều thể loại.” “Ở trong quỹ đạo của ông ấy giống như đi chơi với người huấn luyện yêu thích của bạn, giáo sư thông minh, nhà động viên quyết liệt, người bạn đáng mến nhất, đồng minh trung thành nhất, và – dĩ nhiên – Goonie vĩ đại nhất,” theo Ông Spielberg cho biết. Sinh tại Quận Bronx, New York, Donner đã bắt đầu vào ngành truyền hình vào đầu thập niên 1960s, với nhiều uy tín gồm loạt phim “The Twilight Zone” và phim kinh dị tình báo “The Man From Uncle.” Nhưng phải đợi đến giữa thập niên 1970s ông mới ghi dấu ấn tại Hollywood. Tác phẩm “Superman” năm 1978 của ông với sự tham gia của ngôi sao Christopher Reeve thường được xem như là phim siêu anh hùng hiện đại đầu tiên.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.