Hôm nay,  

Đêm

13/05/202421:04:00(Xem: 5071)



Thơ: Thanh Tâm Tuyền

Nhạc: Cung Tiến

Hát: Bích Liên

Ở cõi đời có nhiều điều khiến mình phải dừng và chậm lại để mà lắng nghe. Như nghe tiếng chim hót ngoài vườn rực nắng, nghe tiếng mưa đêm rả rích quện với tiếng gió chẳng hạn. Nhưng đó chỉ là yếu tố ngoại cảnh làm chạnh lòng những ai đang có nỗi niềm bên trong. Chúng chẳng sánh được với những cảm xúc phát xuất từ đáy lòng thi sĩ biến thành thơ, để rồi thơ chạm vào tim người nhạc sĩ phát ra nốt nhạc, tiếng nhạc làm thổn thức giọng hát và ngân vang trong lòng người.

Đêm – thơ Thanh Tâm Tuyền

Những đêm nào chiến tranh đã quên

Con mắt đen niềm im lặng

Anh vẫn đi hoài trong thành phố Cô đơn

Trưa nắng cháy

Vào sâu trong ghẻ lạnh

Với máu trong tim

Chảy nhanh như máy móc đau ốm

Ở cuối đêm

Em rũ tóc nói những lời mê sảng

Những ám hiệu

Của mặt biển đen không

Tình yêu tuyệt vọng

Anh xé tóc em cùng những cành lá chết

Mùa thu

Ghi thương tích nơi cườm tay

Khóa chặt

Anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc

Khuôn mặt vỡ tan

Như cẩm thạch

Như nước mắt

Như muôn đời

Không hối hận

Con đường anh phải đi một mình

Trần truồng dã thú

Đón anh ở cuối đường

Hố sâu vĩnh viễn

Không có em

Bên kia bức tường

Anh bị nhốt trong trại hủi

 

Tiếng ngàn năm em gọi

Yêu nhau hết một đời

Hết một đời chưa đủ

Còn kiếp nào gặp nhau

Anh nguyền rủa

Lời thằng du đãng

Đừng ràng buộc thiên tài

Con chó vào cột nhà

Cho đi hoang làm cơn lốc bi thảm

Cuốn ngay chính mình chết theo không gian….

Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền được mọi người xưng tụng là Vua của Thơ Tự Do. Nửa cuối Thế Kỷ 20 ông sáng tác sung mãn, mang thể thơ Tự Do trổi lên ngang tầm với thể thơ Tiền Chiến. Và ông đã thành công trong loại Thơ Mới này.

Ông dùng lối “hành thơ” không vần không vận không số chữ để lột tả ý tưởng đang tuôn trào trong ông. Độc giả đọc thơ Thanh Tâm Tuyền có lúc phải nín thở để đọc hết mạch thơ thì mới thấy ra được ý tác giả là thế nào. Có lúc hoảng hốt vì câu thơ chấm dứt đột ngột, để từ đấy cảm xúc rơi độp xuống vực, tận cùng. Tính kể lể dài dòng hay tính cô đọng của thơ Thanh Tâm Tuyền là thế. Độc giả cứ bị lôi theo dòng tư tưởng mà ông vội vã ghi xuống trang giấy. Ông nín thở viết thì người đọc cũng nín thở mà đọc.

Độc giả đôi khi tự hỏi “Không hiểu trong tâm của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có bao nhiêu ngăn kéo để chứa đựng nhiều nỗi niềm như thế. Có ngăn chứa tình yêu đất nước, ngăn cho tình yêu trai gái, ngăn cho con con người và xã hội, ngăn cho thú vật, cho cây cỏ…" Thi sĩ đa đoan thật!

Thế rồi… thơ để đọc khơi khơi là quên mau cho dù thơ rất hay. Cho nên Thơ cần được phà hơi tiếp sức bằng âm nhạc. Thơ và nhạc kết hợp với nhau làm nên một bàu trời mới, sắc màu mới để thấm vào lòng người dễ dàng hơn và lưu lại lâu hơn.

Khi thơ được phổ nhạc qua làn điệu, âm vực, tiết điệu thì Thơ biến đổi. Nó mang thêm tâm của người nhạc sĩ bên cạnh tình của chàng thi sĩ. Nay thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã có nhạc sĩ Cung Tiến đồng hành. Nhạc sĩ Cung Tiến được thiên phú tài năng trong lĩnh vực âm nhạc, dẫu rằng khi du học ông chọn ngành kinh tế. Ông đã xông pha học thêm về nhạc lý, ký xướng âm, hòa âm, đối âm… do vậy trong ông là một trời mênh mông cả hai lĩnh vực vô cùng khác nhau. Xem vậy chớ, chúng hỗ tương lẫn nhau để giúp ông sáng tác ca khúc vô cùng phong phú. Nhạc phẩm của ông mang nhiều hơi hướm Tây phương, chắc cũng nhờ vào học thức của cả hai lĩnh vực thơ – mơ mộng và kinh tế - thực tế đầy con số.


Ở bài thơ Đêm – Thanh Tâm Tuyền được nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc thì đây là một sự kết hợp hài hòa, tương trợ lẫn nhau giữa thơ và nhạc. Dường như nhạc sĩ Cung Tiến đã nương theo ý thơ mà đưa âm nhạc vào. Ông không dùng kỹ thuật viết nhạc ca khúc như thường khi nữa, mà cứ để mặc cho nốt nhạc lượn theo con chữ. “Intro” vào bài là chuỗi nốt lơ lửng rải từ cung B giáng trưởng xuống, cùng với những quãng nghịch gây cảm giác lơ lửng như đang trong giấc mơ.

Nhà thơ với tâm trạng ngao ngán chiến tranh. Cuộc chiến gây lòng đau quặn vì hạnh phúc bị vỡ toang, đi với người tình mà như là những mảnh chắp vá hoảng loạn, nỗi sợ, và nỗi ghê tởm. Nói tóm lại đó là một cơn ác mộng trong đêm. Do vậy nhạc sĩ Cung Tiến đã dùng toàn những chuỗi nốt nhạc với rất nhiều dấu hóa bất thường để gây cảm giác ngang trái mà phổ thơ Thanh Tâm Tuyền. Mùi hương đêm nay mang hơi hướm ngai ngái nhờ vào kỹ thuật này.

“Rồi, những đêm nào chiến tranh đã quên - Con mắt đen – niềm im lặng – anh vẫn đi hoài trong thành phố”, nhạc sĩ đã viết một chuỗi nốt với âm vực trung bình. Tiếng hát êm cho thấy đây mới bắt đầu câu chuyện. Để dẫn nhập vào tâm trạng bất an kế tiếp, nhạc sĩ cho câu hát kết thúc ở quãng 6 rất lơ lửng, tắc nghẽn “trong thành phố…”.

“Cô đơn – trưa nắng cháy – vào sâu trong ghẻ lạnh – với máu trong tim – chảy nhanh nhanh như máy móc đau ốm…”, vẫn là tâm trạng không tươi sáng từ ý thơ, nên nhạc sĩ vẫn giữ tiếng nhạc lừ đừ đi lên và dừng ở âm vực cao hơn câu trước. “Ở cuối đêm - ở cuối đêm…” chuỗi nốt nhạc trở lại êm ả bình thường như thơ sĩ đang muốn vỗ về giấc ngủ trở lại.

Nhưng không! “Em rũ tóc nói lời mê sảng – những ám hiệu – của mặt biển đen không – tình yêu tuyệt vọng…” thi sĩ báo hiệu cuồng phong nhưng chưa nổi dậy. Nhạc sĩ vẫn giữ những nốt nhạc êm như mặt biển chưa nổi sóng.

Qua Đêm Thanh Tâm Tuyền trải nỗi lòng ngổn ngang, tơ vò mà ông vẫn chưa tìm được lối thoát. Thế thì Cung Tiến bèn cho bài nhạc kết thúc ở quãng 9. Nốt nhạc kéo dài, nhẹ dần và chìm vào im lặng để hòng thính giả mang hoài cảm giác lửng lơ, tơ vò cùng thi sĩ.

Để thơ và nhạc có gạch nối đến thính giả thì ca sĩ là điểm tựa duy nhất cần có. Ca sĩ nghiệp dư Bích Liên đóng đúng vai trò của mình. Ngoài đời bà là bác sĩ, thế nhưng vì có tài năng trong âm nhạc và ca hát. Bà đã dùng giọng hát có nhiều âm hưởng cổ điển để hát những ca khúc rất trúc trắc này. Kỹ thuật hát của ca sĩ Bích Liên hoàn chỉnh, giọng nhẹ mà rõ lời nên bà đã diễn tả trọn vẹn được nỗi lòng của thi sĩ. Kỹ thuật buông giọng và luyến láy bà đã thành công trong diễn tả nỗi bực tức, thất vọng từ nốt nhạc. Kỹ thuật đưa tiếng hát từ nốt thấp rồi cao vút lên không là lúc bà lột tả được sự thương nhớ mà nhạc sĩ mong muốn. Và cuối cùng để diễn tả nỗi lòng khôn nguôi mà không có lối thoát thì nốt nhạc lơ lửng ở quãng 9, nốt cuối cùng chìm dần vào im lặng. Âm thanh đã chấm dứt nhưng thính giả vẫn lặng im không dám nhúc nhích vì còn mong chờ một điều huyền diệu sắp xảy ra!? Nhạc sĩ Cung Tiến và thi sĩ Thanh Tâm Tuyền còn giao duyên thêm với nhau bài Lệ Đá Xanh. Ca sĩ Bích Liên đóng góp tiếng hát để làm tròn đầy bộ ba “thi sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ” cống hiến cho nền âm nhạc Việt Nam nói chung, nơi hải ngoại nói riêng.

Nay dài dòng và nhiều lời với bài thơ Đêm. Bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã làm nên chuyện bộ ba “thi – nhạc – ca” sĩ. Nó đi một vòng tròn, đi từ tim một người để rồi đến tim một người khác, rồi đến một người khác nữa và lây truyền mãi cho đến đời sau. Để có một cái đẹp chân thiện mỹ mà đời sống con người ai cũng mong có.

Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền còn giao tình với nhạc sĩ Phạm Đình Chương ở những ca khúc: Bài Ca Ngợi Tình Yêu, Dạ Tâm Khúc, Đêm Màu Hồng, Lệ Đá Xanh. Những ca khúc đã trở thành bất tử!

California, ngày 12 tháng 5 – 2024
Doãn Cẩm Liên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tại Việt Nam, dòng nhạc boléro du nhập vào miền Nam Việt Nam vào khoảng thập niên 1950, lúc phong trào tân nhạc Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ; nhiều nhạc sĩ bắt đầu sử dụng nhạc điệu phương Tây thay cho nhạc điệu phương Đông truyền thống.
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Được sự cho phép của nghệ sĩ Lê Uyên, chúng tôi rất tiếc phải thông báo đến quý khán/thính giả và quý bằng hữu về việc Lê Uyên vừa trải qua tai nạn xe do một người tài xế say rượu gây ra vào khoảng 9 giờ 45 phút tối thứ Ba, ngày 17 tháng 6 năm 2025 tại Quận Cam, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Hiện tại, Lê Uyên đang được điều trị tại bệnh viện và không ở trong tình trạng nguy kịch
CÓ NHAU TRONG ĐỜI: 7 GIỜ TỐI CHỦ NHẬT 29 THÁNG 6 NĂM 2025 tại Coffee Factory: 15582 Brookhurst St., Westminster, CA 92683. Vé bảo trợ $150 - Vé VIP $100 - Vé đồng hạng $80. Để đặt vé và bảo trợ cho chương trình, vui lòng nhắn tin ban tổ chức 714-725-5445 hoặc 714-592-8941. Ban tổ chức chân thành cảm ơn Coffee Factory hỗ trợ Lê Uyên thực hiện chương trình tưởng niệm này.
Mỗi năm cứ đến cuối tháng Tư, mặc dầu đang là mùa Xuân thanh bình trên quê hương thứ hai, những kỷ niệm đau đớn xưa vẫn tìm đường trở về trong tâm tưởng. Năm nay đánh dấu 50 năm, một nửa thế kỷ nên càng thêm đậm nét. Bản thân tôi thuộc lớp người di cư vào Nam sau hiệp định Geneve ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, lại có thêm những hoài niệm khắc khoải hơn. Trong hiệp định có khoảng 300 ngày để di cư, sau này vì số người di cư từ Bắc vào Nam quá đông nên được gia hạn thêm vài tuần. Đối với cá nhân tôi, rời bỏ miền Bắc tháng 4 năm 1955 nên là đánh dấu 70 năm di cư và 50 năm di tản. Những người hai lần di cư, nhất là các phụ nữ Việt thật nhẫn nại, kiên cường chịu đựng từ 70 năm qua, định cư tại miền Nam mới được 20 năm thì lại phải di tản. Nếu năm 1955, chỉ xuống miền Nam thì năm 1975 phải đến một nơi xa lạ cách cả một đại dương.
Vũ Xuân Thông sinh ngày 9 tháng 12 năm 1939 tại Hà Nội. Là gia đình có đạo dòng, Thông theo học trường Puginier, là một ngôi trường cổ xưa được xây cất từ năm 1897 tại Hà Nội. Năm 1954, khi gia đình di cư vào Nam, ở tuổi 15 Thông là con trai cả trong một gia đình lúc đó có 4 anh em: Vũ Xuân Thông, Vũ Văn Thanh, Vũ Văn Phượng, Vũ Thị Bích, sau này trên vùng đất mới, gia đình Thông có thêm 2 người em nữa là Vũ Hồng Vân, Vũ Văn Dũng.
Chưa có bao giờ vào những ngày đầu năm mà tôi phải nằm nhà suốt như năm nay. Năm 2025, năm của con rắn, năm Ất Tỵ. Ở tuổi già bước vào tuổi tám bó, cực chẳng đã bị cái bệnh khiến mệt rề rề mới nằm nhà, nếu khỏe ra cà phê tán gẫu. Chuyện tầm phào từ thuở xa xưa, thời khai thiên lập địa, có một phái đoàn có cả con người và muôn loài động vật, chuyện không nhắc đến dùng phương tiện gì, mà tất cả đã mò lên trình diện được cùng Thượng Đế. Việc trước tiên là… vấn an Ngài, thứ đến là xin Ngài ban phước lành cho trần thế. Không hiểu từ một sự sắp xếp theo một tuần tự ngẫu nhiên nào mà cặp đôi trùng phùng đến quì trước mặt Thượng Đế là một lão già lẩm cẩm, chừng đâu đó tuổi bằng tuổi tôi hiện giờ (83) và một con rắn lượn mình hớn hở.
Hà Nội của một thời “36 phố phường” cũng không hiểu vì sao, thời còn đi học nơi phố cổ Hội An, ngoài thơ, văn… vài ca khúc từ thời tiền chiến đã chiếm trong tâm hồn tôi. Nơi chốn đó khi xa cách với nỗi buồn, tiếc như như ca khúc Hướng Về Hà Nọi của nhạc sĩ Hoàng Dương
“Để có thể nối kết đồng cảm ý nghĩa và tình tự của một ca khúc với người nghe, người hát cần hiểu ca từ sâu sắc và rung động với tâm tình trong lời và nhạc.”
Và đêm qua, chân dung ấy đã mang bao tâm hồn, bao thế hệ cùng trở lại bên nhau. Anh biết không, trong khuôn viên rộng lớn của Bowers Museum, em đã nhận ra, và tìm về với bao nhiêu gương mặt thân quen mà đã từ lâu em không gặp. Họ là những tên tuổi lớn của mọi lĩnh vực từ văn chương, âm nhạc cho đến điện ảnh... Họ là những vị đã bước qua tuổi tám mươi, đến những em nhỏ chưa tròn đôi mươi. Họ là những nhân chứng của cuộc chiến tranh. Như một định mệnh, những tâm hồn ấy lại ngồi bên nhau để cùng nghe tiếng hát vang lên: “Tình ngỡ chết trong nhau, nhưng tình vẫn rộn ràng, Người ngỡ đã quên lâu, nhưng người vẫn bâng khuâng” (Trịnh Công Sơn)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.