Hôm nay,  

Chuyện đời thường

20/03/202000:00:00(Xem: 4506)
2.-Chuyen-Doi-Thuong
Minh họa: Tâm Cảnh - Tranh Sơn Dầu Nguyễn Việt Hùng

Xin giới thiệu, tôi tên là Thừa. Tất nhiên, tôi không tự chọn tên cho mình. Đây là tên do ba tôi đặt. Ở đời, cái gì không cần thiết, người ta gọi là thừa. Khi đến Mỹ, buồn cảnh xất bất xang bang, chữ nghĩa cũng chán cảnh mang râu đội mũ, tôi được gọi là Thua. Từ ấy, tôi đâm ra không thích tên mình.

Khi có trí khôn hiểu ra được mọi việc, chưa kịp thắc mắc tên mình với ba tôi thì ông đã chết. Ông chết vì lỡ sinh ra làm đàn ông trong thời chiến. Chế độ ngày ấy gọi ông là tử sĩ. Người ta phát cho mẹ tôi tấm bằng Tổ Quốc Ghi Ơn. Mẹ nói, nếu nhà có tiền đút lót, ba tôi đã không phải đi lính. Và bà cứ nhất định, ba tôi chết vì nghèo. Tôi tin, ông không đơn độc, số người chết vì nghèo trên trái đất này nhiều không kể xiết.

Như bất cứ đứa trẻ nào sinh ra trong chiến tranh, ký ức tôi gắn liền với những lần chạy nạn. Quê tôi nằm ở vùng xôi đậu. Mỗi khi nghe tiếng súng hai phía bắn nhau, mẹ lại đặt tôi ngồi vào một chiếc thúng. Chiếc còn lại chứa lỉnh khỉnh bao nhiêu là thứ, từ thức ăn, gạo muối đến quần áo. Mẹ gánh tất cả mọi thứ lên vai, theo dân làng tản cư ra đồng. Hồi bé, tôi mơ lớn lên sẽ đi lính. Tôi nghĩ, nếu có súng trong tay sẽ không bị ai ăn hiếp. Lũ trẻ con chúng tôi ngày ấy thường chặt nhánh cây gòn đẽo làm súng, chia phe đánh nhau. Lúc đầu chúng tôi đánh bằng miệng, khi bất phân thắng bại mới dùng đến tay chân. Ngày nào cũng đánh nhau đến u đầu, bướu trán. Chúng tôi không hiểu tại sao lại thích đánh như thế. Mãi sau này tôi mới biết người lớn cũng thích đánh nhau. Các nhà tâm lý học đã nhầm khi bảo ý thích bạo lực, trò chơi động tay động chân là sản phẩm của kẻ vị thành niên chưa trưởng thành. Có thể chúng tôi mang gen di truyền của tổ tông, sinh ra trong một đất nước có lịch sử mấy ngàn năm chuyên đánh nhau.

Lúc Sài Gòn sắp sụp đổ, nghe tin ông Thiệu lên máy bay dông ra nước ngoài, mẹ chửi đổng: Quân khốn kiếp! Từ đó, mẹ cũng thôi bảo tôi lớn lên nhớ trả thù cha. Năm ấy tôi tròn mười tuổi. Mẹ làm bà góa, khó nhọc nuôi tôi lớn. Hồi nhỏ, mẹ chỉ học biết chữ thì ở nhà làm ruộng. Mẹ xem mọi thứ sách vở đều thiêng liêng nên khuyên tôi học. Học để thoát nghèo, mẹ nói thế. Có nhiều người cả đời chưa từng đọc hết một quyển sách, nhưng rất giàu. Mãi sau này tôi mới biết, họ giàu vì cướp của người khác, không phải vì học.   

Tôi bỏ quê ra đi lúc trưởng thành. Tôi sống ở một chỗ, gọi là thành phố, nơi con người thích chui rúc vào những dãy nhà cao tầng, với các tiện nghi sinh hoạt vây quanh. Cuộc sống nơi đô hội mê hoặc tôi cũng ngang bằng sự quyến rũ của các cô gái. Ở đó, tôi bỏ công học hỏi đủ thứ, từ cách đi đứng nói năng tới việc cầm nĩa sao cho đúng khi được mời tham dự các bữa tiệc. Tôi tập ăn bánh mì kẹp thay cơm. Như người ta, tôi thích tranh Vincent Van Gogh và cũng hỏi tại sao nàng Mona Lisa lại mỉm cười. Tôi không muốn làm bạn những cô gái cùng màu da tiếng nói với mình, chỉ thích mấy cô nàng tóc vàng. Và tôi thường thất tình triền miên. Tôi bỏ ngoài tai lời khuyên của mẹ, mặc kệ cái gọi là giữ gìn nòi giống nguồn cội. Để phủ nhận và gột rửa xuất thân quê mùa của mình, tôi nhất định con người không sinh ra từ loài khỉ. Tôi chẳng coi thuyết tiến hóa ra gì. Có lần tôi đi nghe một vị tự xưng là Phật sống, rao giảng về thế giới sau cõi chết. Bà nói tự tin đến nỗi, ai cũng tưởng bà vừa từ nơi ấy bước ra. Con người cứ thích lừa dối nhau, và cũng mãi tự dối lừa mình. Căn phòng chật cứng người. Tôi có cảm giác mọi người đang tự thôi miên mình, lòng trầm xuống như thể chuẩn bị thoát xác. Riêng tôi lại thích nhìn quanh quẩn. Những chiếc váy của các cô gái bao giờ cũng khiến tôi bận tâm hơn những đề tài có tính hàn lâm cao xa. Đã có thời tôi nhầm lẫn, cứ tưởng cái đẹp và cái thiện là một.


Mỗi sáng, mẹ nhìn tôi lo lắng. Gần đây mắt mẹ mờ dần. Mẹ bắt đầu có thói quen muốn tôi ngồi lại một bên để bà rờ mặt. Mẹ nghĩ, mỗi ngày tôi thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Biết đâu, vào một lúc nào đó, tôi sẽ không còn là con của bà nữa. Không hiểu sao càng lúc tôi càng thấy mệt mỏi, đầu óc hoang mang cứ như người đi lạc. Có lẽ, tôi đã nhiễm quá nhiều, thứ người ta thường gọi là những thói hư tật xấu mặt trái của thành thị.  

Ngày nào mẹ cũng mở tivi xem tin tức Việt Nam. Bây giờ là mùa đông. Quê mình đang vào mùa mưa. Chắc nước đã ngập hết cánh đồng làng. Cây lúa sẽ chết. Nhà nông rồi sống khổ. Nói chán, mẹ thở dài một mình. Nỗi ám ảnh về những ngày tháng cơ cực xa xưa cứ bám lấy bà. Bữa cơm nào, mẹ cũng nhắc tôi lo kiếm vợ Việt Nam. Mày không biết chọc gái à, thằng dài lưng? Hỏi tôi xong, bà lại chép miệng. Không trách được. Lũ con gái bây giờ, Tây cũng không mà Ta cũng không, người ngợm cứ nửa xanh nửa đỏ như đười ươi! Tôi vừa nghe bà, vừa nhai bánh mì. Lần nào cũng thế, mẹ chỉ có mỗi một chuyện để ca cẩm. Sao mày không chịu ăn cơm, cứ đi nhai mãi cái thứ bánh nhạt thếch ấy, hả trời! Tôi nghĩ mẹ sắp lẩn thẩn. Bà không gọi tôi bằng con nữa, chỉ kêu mày. Có lẽ tôi sống hèn. Tôi cứ mãi bận rộn theo chuyện cơm áo đời thường, cũng không dám trả các hóa đơn trễ đến một lần.

Rồi mẹ kể chuyện xưa. Một chiều, mẹ ngồi chải tóc bên thềm nhà, thấy ba tôi đi ngang qua. Ba mày ba trợn lắm. Mới biết nhau, ổng đã đòi hôn tao. Không hiểu sao, tao lại thích để cho ổng ôm như vậy. Ba tháng sau, không trầu cau cưới hỏi gì, tao bỏ nhà trốn theo ổng. Mắt mẹ long lanh sau câu nói. Các nếp nhăn trên mặt bà như giãn ra. Đột nhiên tôi thấy mẹ trẻ lại. Tôi nhìn bà, quên luôn cả nhai cơm.

Tôi ngồi, nhớ về một vùng quê xa vời, nơi có ngôi làng mái tôn lụp xụp nằm bên cạnh một đầm nước tên Ô Loan. Tôi không biết tên đầm có tự bao giờ, và do ai đặt cho. Người ta bảo, vào mùa hè đứng trên đèo Quán Cau nhìn xuống, đầm Ô Loan nằm trải mình bình lặng trông giống như đôi cánh chim loan đang thong thả bay. Tôi nghi ngờ đây là sản phẩm của mấy tay nhà thơ. Ở xứ tôi, tỉ lệ nhà thơ tính trên đầu người nhiều nhất thế giới. Mà không riêng gì cái đầm, ở đó địa danh nào cũng có tên gọi rất đẹp, chỉ có con người là cứ mãi cực khổ, nhếch nhác. Hồi ấy, tôi chỉ thích mùa mưa để được dầm mình trong nước lũ. Có năm, nước từ sông Cái và các con sông nhỏ đổ về, làm ngập trắng cả một vùng. Cả đầm nước yên bình bỗng trở nên hung dữ lạ thường. Cảnh người chết trôi, nhà cửa hư hại, mùa màng thất bát cứ xảy ra vài năm một lần. Cũng chính nơi ấy, tôi đã bỏ lại mối tình học trò của mình. Tôi không được như ba tôi, chỉ mới nắm bàn tay người ta. Nhưng rồi em cũng bỏ tôi đi lấy chồng.

Mẹ bảo khi mẹ mất phải hỏa thiêu, đem tro về rải lên mặt đầm xưa. Ruộng đất bị chính quyền lấy hết rồi, không còn chỗ để chôn. Nói xong, mẹ lắc đầu thở dài. Thật ra, từ lâu dân đen làm gì còn chỗ trên cái mảnh đất mà chúng ta thường gọi là quê hương? Một xứ sở ngày càng nhiều tượng đài và lăng tẩm, nơi chỉ dành riêng cho những kẻ có quyền, khi sống lẫn lúc chết dành nhau để được phong thánh.

Tôi không muốn giống mẹ, chỉ với ước mong được trở về bằng nhúm tro tàn rải xuống mặt đầm xưa sau khi chết. Nhưng tôi sẽ đi đâu, về đâu trên đất nước này? Ai nói cho tôi biết được. Có ai không?

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
126 câu thơ 7 chữ, xứng đáng gọi bài thơ này là một trường ca. Một trong vài bài thơ dài được phân tích và phê bình nhiều lần bởi một số nhà phê bình chuyên và nhiều nhà bàn thơ tản mạn mang tính nghiệp dư. Hầu hết là khen ngợi sau khi giải thích những ý nghĩ tương đối dễ nắm bắt và những ngụ ý, ẩn dụ quen thuộc tạo nên sự dễ dàng cảm nhận. Đó là bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên. Nếu là một bài thơ có giá trị thật hoặc có giá trị bị hoài nghi thì công việc phân tích phê bình bài thơ đó sẽ được tiếp tục qua nhiều thế hệ, ví dụ như chúng ta tiếp tục tìm hiểu và phê phán “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm, hoặc cao hơn là “Kiều” của Nguyễn Du.
... Tôi cảm thấy may mắn vì tôi vẫn có thể kết nối với tổ tiên tôi qua tiếng nói. Nó giúp tôi vững tin hơn vào giá trị những gì tôi hằng tin tưởng và đam mê theo đuổi. Nó phả sức sống vào một người viết lưu vong, cô đơn, tại một bàn viết lữ thứ, cách xa quê hương cả một đại dương rộng lớn...
Khi viết, cô ở trong cơ thể mình, không thể phản bác lại điều đó. Nhưng làm sao giải thích được đồng thới cô cũng ở một nơi khác? Khi viết, cứ như thể cô đang làm việc từ độ cao sáu inch phía trên và ngay trước đầu mình. Nếu năng lượng viết rơi trở lại cơ thể, mọi thứ viết lách đều dừng lại.
Đời Phi Công là truyện vừa, 54 trang, gồm 9 chương. Theo lời tác giả: “Một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời”. Phượng cô em hàng xóm ông dạy kèm ở Hà Nội từ hồi nhỏ. Đầu lá thư ông chỉ viết “Phượng”, trong thư có thêm “Phượng em”!
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.