Hôm nay,  

Con Bệnh

29/05/202000:00:00(Xem: 3657)
CON-BENH
Cậu chủ sốt vất váng nằm vật vạ ra đấy, đầu nhức như búa bổ, mình mẩy đau như dần, cổ họng khô rát, trong huyết quản dường như máu sôi lửa đốt… Thuốc đã uống mấy liều nhưng thuyên giảm chẳng bao nhiêu, hễ hết thuốc thì sốt trở laị, chườm nước đá, chà chanh làm đủ kiểu ngoại phương cũng không ăn thua gì. Mẹ cậu thúc giục:
 
 - Con đi bác sĩ xem sao, xét nghiệm thử có bệnh gì nghiêm trọng không? lẽ nào cảm sốt thông thường mà lâu thế?
 
 Cậu chủ dạ cho qua chuyện rồi uống thêm liều thuốc nữa nằm thiêm thiếp mơ màng

 Đám tiểu yêu ngông cuồng rông rỡ, chúng chạy rần rần khắp nơi, cắn xé hò hét inh ỏi. Bọn chúng hình thù quái dị, đứa thì gai góc tua tủa như con nhím biển, đứa thì vô số xúc tua trên thân như bạch tuộc, đứa thì tròn lẳn và trên thân đầy giác bám như núm cao su… Chúng chạy ngược xuôi loạn xạ, dường như chẳng có đầu lĩnh, chúng nó làm bất cứ gì chúng muốn, chỉ cần một đứa kêu thì cả bọn rần rần ùa theo. Ban đầu chúng từ bên ngoài, nhân lúc cậu chủ sơ ý thế là bọn chúng nhập vào và ra sức tung hoành. Một đứa trong bọn kêu:
 
 - Anh em ơi, chúng ta phải tấn công vào phổi hắn, làm cho hắn ta không thở được thì chúng ta mới hạ gục được!
 
 Cả bọn rùng rùng kéo vào phổi, các chiến binh bạch cầu bảo vệ cậu chủ núng thế, chúng tiêu diệt nháy mắt. Nhập vào phổi rồi chúng rúc rỉa, đục khoét lá phổi, mỗi nhát cắn của chúng là những cơn ho rũ rượi của cậu chủ. Bọn chúng rúc rỉa cuồng điên, bất ngờ chúng gặp một binh đoàn kháng thể từ ngoài đưa vào, những kháng thể từ liều thuốc của cậu chủ uống. Bọn chúng khựng laị một tí nhưng rồi ỷ mạnh và đông, chúng tràn lên nhưng những kháng thể quá mạnh,  một số bỏ mạng, một số núng thế, bọn chúng rút lui trốn thật sâu trong ngóc ngách phổi và các phần tạng khác. Binh đoàn kháng thể tiêu diệt bọn virus kia đã giúp cậu chủ dứt cơn ho, sốt hạ xuống, giấc ngủ êm hơn những ngày qua. Tiếc là thời hạn các kháng thể yếu dần. Bọn tiểu yêu lập tức tái nhóm, chúng sinh sôi thật nhanh, cho ra những biến thể mới kháng laị các kháng thể thuốc. Những phiên bản virus mới còn ghê gớm hơn loại đời đầu, chúng lập tức lan toả khắp thân thể. Một đứa trong bọn kêu gào:
 
 - Anh em ơi, chúng ta phải xâm nhập vào tim và não hắn, đấy là hai cơ quan nội tạng quan trọng. Từ tim sẽ khống chế toàn bộ cơ thể, từ não làm hắn ta tê liệt!
 
 Cả bọn nhảy cẩng lên:
 
 - Đúng thế! phải tấn công tim và não hắn ta!
 
 Đám tiểu yêu virus nhảy nhót nhe nanh muá vuốt, chúng khạc nhổ phóng uế bừa bãi vừa cắn xé những tế bào bên cạnh chúng. Chúng chia hai hướng tiến vào tim và não cậu chủ. Cậu chủ lên cơn sốt trở laị, nằm mê man hầu như không nhận biết được chung quanh. Mẹ cậu chủ gọi cấp cứu đưa vào nhà thương. Bác sĩ lập tức truyền dịch, cho thở bằng máy trợ hô hấp, chích thuốc hạ sốt và lấy máu, mô đi xét nghiệm lập tức. Bác sĩ điều trị lẩm bẩm:
 
 - Thật lạ quá, loaị virus này chưa từng thấy bao giờ, không biết y văn có ghi nhận chưa? Tôi đã điều trị hàng trăm ca viêm phổi nhưng chưa hề thấy trường hợp naò như trường hợp này. Phổi cậu ta bị virus phá huỷ, tim, não cũng suy. Chẳng có thứ thuốc nào trị được lũ virus này, chúng laị sản sinh và phát tán cực nhanh.
 
 Vị bác sĩ ấy lập tức báo cáo với trưởng khoa, viện chủ và các đồng nghiệp. Nào ngờ vị bác sĩ ấy bị các giới chức an ninh kêu lên cảnh cáo và đe nẹt:
 
 - Cậu phải lập tức bỏ ngay cái ý nghĩ của cậu, chẳng có virus lạ nào cả, đó cũng chỉ là viêm phổi thông thường mà thôi. Cậu mà còn nói nữa thì cậu sẽ biết chuyện gì xảy ra chứ? cậu thiếu lập trường quan điểm laị có tư tưởng hữu khuynh, cậu đang bôi xấu chính quyền. Cậu làm lợi cho thế lực thù địch, bọn chúng sẽ dùng báo cáo của cậu để phá hoại chính sách của nhà nước ta. Từ hôm nay cậu không được đưa tin cho bất cứ ai!
 
 Kiểm điểm và đe nẹt xong, họ cho người lập tức hủy hết các báo cáo và những bằng chứng về loại virus lạ ấy. Các bác sĩ khác không còn ai dám nói gì, có người cũng không hề hay biết là virus lạ và có cuộc phê bình vị bác sĩ kia. Nhà cầm quyền lập tức cử một nữ tướng đến thành phố và hạ lệnh cho bệnh viện:
 
 - Những bệnh nhân có dấu hiệu giống cậu chủ đều phải ghi là viêm phổi thông thường.
 Ngày thứ mười thì bọn tiểu yêu virus hoàn toàn làm chủ, hai lá phổi cậu chủ hư hỏng hoàn toàn, cậu chủ thở bằng máy trợ thở và không còn cơ hội phục hồi. Đám tiểu yêu virus giờ thì mạnh đến độ không còn khống chế được nữa. Bạch cầu và các kháng thể như những con dê đối đầu cọp đói.
 
 Cậu chủ qua đời, mẹ cậu chủ và bạn bè giao tiếp với cậu cũng đổ bệnh và những dấu hiệu cũng y như cậu ta, những người lạ vô tình tiếp xúc với mẹ cậu ta, bạn cậu ta cũng dính bệnh như cậu. Vài tuần sau thì số người bị bệnh giống cậu không còn đếm nổi, bệnh viện không còn chỗ, người bệnh và người chết la liệt, các lò thiêu hoạt động hết công sức, cả ngày lẫn đêm. Vị bác sĩ điều trị cho cậu ta cũng lây bệnh và ra đi theo cậu ta, một cái chết lặng im trong muôn ngàn cái chết. Có những người biết chuyện, muốn vinh danh vị bác sĩ nọ, vì đã có công phát hiện và cảnh báo về loài virus nguy hiểm này, tiếc thay ý định tốt đẹp vừa khởi lên thì bị dập ngay. Một khẩu lệnh ban xuống:
 
 - Cấm ngặt việc tưởng niệm, ông bác sĩ ấy cũng như mọi bác sĩ khác, chẳng có virus lạ nào cả. Kẻ nào lợi dụng vụ việc để bôi xấu nhà cầm quyền sẽ bị trừng phạt!
 
 Khẩu lệnh ban ra cùng với khẩu hiệu được vẽ khắp nơi:” Mở miệng đập gãy răng, ra đường đập gãy chân”, “ Mỗi con bệnh ở thành phố này là một quả bom nổ chậm”, “ Chống dịch như chống giặc”…
 
 Bấy giờ đám tiểu yêu virus đó được người ta ban cho nó những cái tên thật kêu: Coronavirus, Covid-19… Đám tiểu yêu virus ấy trở thành đám kiêu binh loạn tướng. Chúng theo chân người du lịch, di dân, bọn khách về quê rồi quay trở laị….mang virus khắp bốn phương. Ở vùng đất mới, bọn ngoại kiều về quê khi trở laị mang chúng theo và bọn chúng lập tức hoành hành, chẳng mấy chốc ở đấy trở thành ổ dịch lớn nhất thiên hạ, sau khi chúng hoành hành ở Wuhan, Lombardy, Roma, Tehran, Paris, New York… Bọn chúng che giấu quốc tịch và nguồn gốc của chúng. Thế giới hoàn toàn mù mờ về chúng, vì thế mà chẳng có cách nào điều trị cho hiệu quả, chẳng có thứ thuốc nào ngăn ngừa và cũng chẳng có dữ liệu nào để chế thuốc diệt chúng. Bản thân bọn chúng biết chúng từ đâu nhưng chúng ngậm miệng ăn tiền, tuyệt nhiên chẳng hé lộ chi cả. Người của chúng laị tung ra nhiều tin giả, những thuyết âm mưu nhằm che đậy sự thật nhằm tránh sự lên án của thiên hạ, đồng thời để trục lợi từ cơn dịch.
 
 Có người phẫn nộ thì chúng úp mở:
 
 - Bọn tớ từ món soup dơi!
 
 Người ta hặc lại:
 
 - Dơi cũng được nhiều nơi ăn, sao Virus chỉ có ở Wuhan?
 
 Chúng cười cười:
 
 - Chúng tớ từ động vật hoang dã, từ chợ hải sản.
 
 Thiên hạ nổi đoá:
 
 - Động vật hoang và chợ hải sản có khắp nơi, cớ sao chỉ ở Wuhan mới có virus này?
 
 Bây giờ chúng cười gằn:
 
 - Chúng tớ từ thuyết âm mưu, từ phòng sinh hoá Wu Han, từ âm mưu tàn độc của Tập đaị ca…nhưng các người chẳng làm được gì chúng tớ đâu!
 
 Bọn virus hoành hành khắp thế gian như chốn không người, chúng đặc biệt thích những thành đô lớn và những trung tâm dưỡng lão…Có một điều khá lạ lùng trong cơn đaị dịch này làm thiên hạ phải nghĩ laị, phải tính tới. Có quốc độ nọ nằm sát ổ dịch Wu Han nhưng bọn virus không hề tấn công nổi, mặc dù xứ ấy mở toang cửa đón người từ xứ dịch đến chơi hoặc làm gì đấy thì cũng chẳng ai biết. Xứ ấy có vài trăm mống bệnh nhưng đều là người từ ngoài vào hoặc là kẻ đi ra ngoài mang bệnh mà về, không hề có người bị bệnh từ địa phương và cũng không có lây lan trong cộnng đồng. Có nhiều lý giải nhưng chẳng có lời nào đủ sức thuyết phục, tỷ như: Người xứ ấy có nhiều phước nên không dính dịch, người xứ ấy có kháng thể miễn dịch trong người, cũng có kẻ tung thuyết âm mưu: “Người xứ ấy ăn ở dơ dáy đã lâu nên loài virus Corona kia cũng không nhằm nhò gì.”
 
 Cơn dịch ngày càng nặng nề,mọi người phải ẩn trốn trong nhà, mọi việc đình trệ và ngừng hết. Các nhà khoa học ngày đêm chạy đua chế thuốc nhưng chẳng có bất cứ dấu hiệu tốt đẹp nào. Thiên hạ bất ngờ khi nghe tin tông tông xứ tân thế giới bảo người ta:
 
 - Hãy dùng thuốc sốt rét để trị bọn Coronavirus kia.
 
 Thiên hạ nửa tin nửa ngờ, bọn virus thì cười nắc nẻ:
 
 - Cứ xài thuốc sốt rét thoải mái nhé người anh em!
 
 Người bệnh vẫn tăng, người chết vẫn cứ chết. Virus càng cười thì người chết càng nhiều, bất thần tông tông xứ tân thế giới laị khuyên:
 
 - Uống Lysol, hoặc đưa chất tẩy trùng vaò cơ thể để diệt virus.
 
 Lần này thì bọn virus covid-19 cười sặc sụa luôn, loài người vẫn hoang man lo sợ, các nhà khoa học loay hoay lo chế thuốc, các nhà chính trị ngày đêm chế thêm thuyết âm mưu mới, nhà sản xuất giấy, xà bông, khẩu trang, thuốc sát trùng thì hốt bạc lời to…riêng quê hương của loài tiểu yêu virus ấy thì vẫn hung hăng với chiến dịch” ngoại giao chiến lang” ra sức đổ thừa người này người kia, mạ lị chửi bới không chừa một ai, vừa lợi dụng thiên hạ ra sức chống dịch thì quậy biển đông, âm mưu độc chiếm để độc bá xưng hùng. Thế giới vẫn loay hoay chống dịch và cũng chẳng biết xử lý thế nào với lũ chiến lang kia.
 
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 5/2020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ tôi, sinh nhật nào cũng bốn cây bạch lạp thắp sáng, năm nào bà cũng bốn mươi tuổi, không già hơn. Sinh nhật năm nay cũng vậy. Đàn cháu hát hăm hở Happy Birthday mừng bà nội. Mừng điều gì, tôi không biết. Sống lâu? Bà gần như không bao giờ chết. Xinh đẹp? Bà có bao giờ thay đổi đâu. Khỏe mạnh? Bà sẽ không bao giờ bệnh. Có lẽ con gái tôi biết được điều gì tôi không biết. “Chúc bà nội năm nay có tình yêu.” Cả đám con cháu cười vang kèm theo tiếng vỗ tay. Mẹ cười âu yếm. Trong căn phòng khách này, tôi là người già nhất và là người lạc hậu nhất.
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi. Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời...
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).
Nó đứng như tượng biết cử động suốt ngày đêm. Tôi chưa biết phải làm gì với nó, nhưng tò mò muốn theo dõi. Mang thức ăn và nước uống mới đến mỗi buổi chiều. Tuy bốn chân bị dính cứng trong keo, nhưng mỗi khi tôi đến gần, ngày hôm trước, mắt nó tỏ vẻ giận dữ, cử chỉ hành hung như con vật trong màn múa rối; ngày hôm sau mắt tỏ vẻ nghĩ ngợi, cử động phòng thủ nhiều hơn hăm dọa; ngày thứ ba mắt nhìn thấy buồn bã và cầu khẩn, thoi thóp. Nó chết ngày thứ tư. Thân hình phục xuống trên bốn chân. Đầu gục về phía trước dính vào keo. Mắt nhắm hơn một nửa, hí nhìn không còn cảm giác.
Ngưởì Việt di tản tỵ nạn khi qua đây mới học được tiếng Anh. Cho dù, cuối cùng tốt nghiệp được đại học nhưng có lẽ cũng không thể nào biết tới hết 118 chữ đồng nghĩa với Death trong tự điển Thesaurus được. Ngay người Mỹ bản xứ cũng thế, nói chi đến các chữ khác.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Con người của toán học và kỹ thuật nhưng tâm hồn lại dành cho văn chương. Chính văn chương đã nâng anh dậy thành một nhà văn xứng với cái tên Trần Quí Sách tiền định. Từ năm 1964, anh đã có truyện và thơ trên Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành và Ý Thức. Năm 2004, anh về hưu và dành tất cả thời gian cho văn học Việt Nam với Thư Ấn Quán và Thư Quán Bản Thảo. Anh đã biến căn nhà ở Plainfield, New Jersey, thành nhà in gồm toàn máy móc cũ mua rẻ trên e-Bay để “chế tạo” những cuốn sách từ A đến Z.
Có lẽ từ khi xem cuốn phim Casablanca, một cuốn phim khá xưa, tôi có ý thích đi Morocco. Phim kể về một chuyện tình trong bối cảnh đệ nhị thế chiến. Humphrey Bogart và Ingrid Bergman thủ vai chính. Lúc đó, nhiều nơi trên đất Pháp đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Rất nhiều người chạy trốn Hitler bằng những con đường gian truân. Đi từ Paris, đến Marseilles, đến Lisbon, thoát qua Morocco. Để từ quốc gia ở bắc Phi lo giấy tờ trốn qua Hoa Kỳ. Hình ảnh Ingrid Bergman trong vai Ilsa cúi xuống nói với người nhạc công: “Sam, play it once, play “As Time Goes By”, đã đọng lại thật lâu trong trí nhớ tôi. Vì những lý do ngẫu nhiên, mà chuyến công tác sang Morocco cứ bị dời mãi. Hoạch định từ đầu năm, mãi đến tháng Sáu mới lên lịch được. Tôi nói với thượng cấp của tôi, sẽ lấy một tuần nghỉ phép sau khi đi làm ở Morocco. Lúc đó con tôi cũng được nghỉ lễ hai tuần, rất tiện. Chúng tôi sẽ về nhà Ba Mạ tôi.
Gửi BS Trần Quí Thoại, như một nén nhang tưởng nhớ người lính, nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư. Thác là thể phách, còn là tinh anh. (Nguyễn Du) Những tấm hình chụp nhà văn Trần Hoài Thư trên giường bệnh là của BS Trần Quí Thoại, con trai Trần Hoài Thư gửi cho BS Ngô Thế Vinh với ghi chú: “để Bác Vinh viết về những ngày cuối cùng của Ba con.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.