Hôm nay,  

Con Bệnh

29/05/202000:00:00(Xem: 3691)
CON-BENH
Cậu chủ sốt vất váng nằm vật vạ ra đấy, đầu nhức như búa bổ, mình mẩy đau như dần, cổ họng khô rát, trong huyết quản dường như máu sôi lửa đốt… Thuốc đã uống mấy liều nhưng thuyên giảm chẳng bao nhiêu, hễ hết thuốc thì sốt trở laị, chườm nước đá, chà chanh làm đủ kiểu ngoại phương cũng không ăn thua gì. Mẹ cậu thúc giục:
 
 - Con đi bác sĩ xem sao, xét nghiệm thử có bệnh gì nghiêm trọng không? lẽ nào cảm sốt thông thường mà lâu thế?
 
 Cậu chủ dạ cho qua chuyện rồi uống thêm liều thuốc nữa nằm thiêm thiếp mơ màng

 Đám tiểu yêu ngông cuồng rông rỡ, chúng chạy rần rần khắp nơi, cắn xé hò hét inh ỏi. Bọn chúng hình thù quái dị, đứa thì gai góc tua tủa như con nhím biển, đứa thì vô số xúc tua trên thân như bạch tuộc, đứa thì tròn lẳn và trên thân đầy giác bám như núm cao su… Chúng chạy ngược xuôi loạn xạ, dường như chẳng có đầu lĩnh, chúng nó làm bất cứ gì chúng muốn, chỉ cần một đứa kêu thì cả bọn rần rần ùa theo. Ban đầu chúng từ bên ngoài, nhân lúc cậu chủ sơ ý thế là bọn chúng nhập vào và ra sức tung hoành. Một đứa trong bọn kêu:
 
 - Anh em ơi, chúng ta phải tấn công vào phổi hắn, làm cho hắn ta không thở được thì chúng ta mới hạ gục được!
 
 Cả bọn rùng rùng kéo vào phổi, các chiến binh bạch cầu bảo vệ cậu chủ núng thế, chúng tiêu diệt nháy mắt. Nhập vào phổi rồi chúng rúc rỉa, đục khoét lá phổi, mỗi nhát cắn của chúng là những cơn ho rũ rượi của cậu chủ. Bọn chúng rúc rỉa cuồng điên, bất ngờ chúng gặp một binh đoàn kháng thể từ ngoài đưa vào, những kháng thể từ liều thuốc của cậu chủ uống. Bọn chúng khựng laị một tí nhưng rồi ỷ mạnh và đông, chúng tràn lên nhưng những kháng thể quá mạnh,  một số bỏ mạng, một số núng thế, bọn chúng rút lui trốn thật sâu trong ngóc ngách phổi và các phần tạng khác. Binh đoàn kháng thể tiêu diệt bọn virus kia đã giúp cậu chủ dứt cơn ho, sốt hạ xuống, giấc ngủ êm hơn những ngày qua. Tiếc là thời hạn các kháng thể yếu dần. Bọn tiểu yêu lập tức tái nhóm, chúng sinh sôi thật nhanh, cho ra những biến thể mới kháng laị các kháng thể thuốc. Những phiên bản virus mới còn ghê gớm hơn loại đời đầu, chúng lập tức lan toả khắp thân thể. Một đứa trong bọn kêu gào:
 
 - Anh em ơi, chúng ta phải xâm nhập vào tim và não hắn, đấy là hai cơ quan nội tạng quan trọng. Từ tim sẽ khống chế toàn bộ cơ thể, từ não làm hắn ta tê liệt!
 
 Cả bọn nhảy cẩng lên:
 
 - Đúng thế! phải tấn công tim và não hắn ta!
 
 Đám tiểu yêu virus nhảy nhót nhe nanh muá vuốt, chúng khạc nhổ phóng uế bừa bãi vừa cắn xé những tế bào bên cạnh chúng. Chúng chia hai hướng tiến vào tim và não cậu chủ. Cậu chủ lên cơn sốt trở laị, nằm mê man hầu như không nhận biết được chung quanh. Mẹ cậu chủ gọi cấp cứu đưa vào nhà thương. Bác sĩ lập tức truyền dịch, cho thở bằng máy trợ hô hấp, chích thuốc hạ sốt và lấy máu, mô đi xét nghiệm lập tức. Bác sĩ điều trị lẩm bẩm:
 
 - Thật lạ quá, loaị virus này chưa từng thấy bao giờ, không biết y văn có ghi nhận chưa? Tôi đã điều trị hàng trăm ca viêm phổi nhưng chưa hề thấy trường hợp naò như trường hợp này. Phổi cậu ta bị virus phá huỷ, tim, não cũng suy. Chẳng có thứ thuốc nào trị được lũ virus này, chúng laị sản sinh và phát tán cực nhanh.
 
 Vị bác sĩ ấy lập tức báo cáo với trưởng khoa, viện chủ và các đồng nghiệp. Nào ngờ vị bác sĩ ấy bị các giới chức an ninh kêu lên cảnh cáo và đe nẹt:
 
 - Cậu phải lập tức bỏ ngay cái ý nghĩ của cậu, chẳng có virus lạ nào cả, đó cũng chỉ là viêm phổi thông thường mà thôi. Cậu mà còn nói nữa thì cậu sẽ biết chuyện gì xảy ra chứ? cậu thiếu lập trường quan điểm laị có tư tưởng hữu khuynh, cậu đang bôi xấu chính quyền. Cậu làm lợi cho thế lực thù địch, bọn chúng sẽ dùng báo cáo của cậu để phá hoại chính sách của nhà nước ta. Từ hôm nay cậu không được đưa tin cho bất cứ ai!
 
 Kiểm điểm và đe nẹt xong, họ cho người lập tức hủy hết các báo cáo và những bằng chứng về loại virus lạ ấy. Các bác sĩ khác không còn ai dám nói gì, có người cũng không hề hay biết là virus lạ và có cuộc phê bình vị bác sĩ kia. Nhà cầm quyền lập tức cử một nữ tướng đến thành phố và hạ lệnh cho bệnh viện:
 
 - Những bệnh nhân có dấu hiệu giống cậu chủ đều phải ghi là viêm phổi thông thường.
 Ngày thứ mười thì bọn tiểu yêu virus hoàn toàn làm chủ, hai lá phổi cậu chủ hư hỏng hoàn toàn, cậu chủ thở bằng máy trợ thở và không còn cơ hội phục hồi. Đám tiểu yêu virus giờ thì mạnh đến độ không còn khống chế được nữa. Bạch cầu và các kháng thể như những con dê đối đầu cọp đói.
 
 Cậu chủ qua đời, mẹ cậu chủ và bạn bè giao tiếp với cậu cũng đổ bệnh và những dấu hiệu cũng y như cậu ta, những người lạ vô tình tiếp xúc với mẹ cậu ta, bạn cậu ta cũng dính bệnh như cậu. Vài tuần sau thì số người bị bệnh giống cậu không còn đếm nổi, bệnh viện không còn chỗ, người bệnh và người chết la liệt, các lò thiêu hoạt động hết công sức, cả ngày lẫn đêm. Vị bác sĩ điều trị cho cậu ta cũng lây bệnh và ra đi theo cậu ta, một cái chết lặng im trong muôn ngàn cái chết. Có những người biết chuyện, muốn vinh danh vị bác sĩ nọ, vì đã có công phát hiện và cảnh báo về loài virus nguy hiểm này, tiếc thay ý định tốt đẹp vừa khởi lên thì bị dập ngay. Một khẩu lệnh ban xuống:
 
 - Cấm ngặt việc tưởng niệm, ông bác sĩ ấy cũng như mọi bác sĩ khác, chẳng có virus lạ nào cả. Kẻ nào lợi dụng vụ việc để bôi xấu nhà cầm quyền sẽ bị trừng phạt!
 
 Khẩu lệnh ban ra cùng với khẩu hiệu được vẽ khắp nơi:” Mở miệng đập gãy răng, ra đường đập gãy chân”, “ Mỗi con bệnh ở thành phố này là một quả bom nổ chậm”, “ Chống dịch như chống giặc”…
 
 Bấy giờ đám tiểu yêu virus đó được người ta ban cho nó những cái tên thật kêu: Coronavirus, Covid-19… Đám tiểu yêu virus ấy trở thành đám kiêu binh loạn tướng. Chúng theo chân người du lịch, di dân, bọn khách về quê rồi quay trở laị….mang virus khắp bốn phương. Ở vùng đất mới, bọn ngoại kiều về quê khi trở laị mang chúng theo và bọn chúng lập tức hoành hành, chẳng mấy chốc ở đấy trở thành ổ dịch lớn nhất thiên hạ, sau khi chúng hoành hành ở Wuhan, Lombardy, Roma, Tehran, Paris, New York… Bọn chúng che giấu quốc tịch và nguồn gốc của chúng. Thế giới hoàn toàn mù mờ về chúng, vì thế mà chẳng có cách nào điều trị cho hiệu quả, chẳng có thứ thuốc nào ngăn ngừa và cũng chẳng có dữ liệu nào để chế thuốc diệt chúng. Bản thân bọn chúng biết chúng từ đâu nhưng chúng ngậm miệng ăn tiền, tuyệt nhiên chẳng hé lộ chi cả. Người của chúng laị tung ra nhiều tin giả, những thuyết âm mưu nhằm che đậy sự thật nhằm tránh sự lên án của thiên hạ, đồng thời để trục lợi từ cơn dịch.
 
 Có người phẫn nộ thì chúng úp mở:
 
 - Bọn tớ từ món soup dơi!
 
 Người ta hặc lại:
 
 - Dơi cũng được nhiều nơi ăn, sao Virus chỉ có ở Wuhan?
 
 Chúng cười cười:
 
 - Chúng tớ từ động vật hoang dã, từ chợ hải sản.
 
 Thiên hạ nổi đoá:
 
 - Động vật hoang và chợ hải sản có khắp nơi, cớ sao chỉ ở Wuhan mới có virus này?
 
 Bây giờ chúng cười gằn:
 
 - Chúng tớ từ thuyết âm mưu, từ phòng sinh hoá Wu Han, từ âm mưu tàn độc của Tập đaị ca…nhưng các người chẳng làm được gì chúng tớ đâu!
 
 Bọn virus hoành hành khắp thế gian như chốn không người, chúng đặc biệt thích những thành đô lớn và những trung tâm dưỡng lão…Có một điều khá lạ lùng trong cơn đaị dịch này làm thiên hạ phải nghĩ laị, phải tính tới. Có quốc độ nọ nằm sát ổ dịch Wu Han nhưng bọn virus không hề tấn công nổi, mặc dù xứ ấy mở toang cửa đón người từ xứ dịch đến chơi hoặc làm gì đấy thì cũng chẳng ai biết. Xứ ấy có vài trăm mống bệnh nhưng đều là người từ ngoài vào hoặc là kẻ đi ra ngoài mang bệnh mà về, không hề có người bị bệnh từ địa phương và cũng không có lây lan trong cộnng đồng. Có nhiều lý giải nhưng chẳng có lời nào đủ sức thuyết phục, tỷ như: Người xứ ấy có nhiều phước nên không dính dịch, người xứ ấy có kháng thể miễn dịch trong người, cũng có kẻ tung thuyết âm mưu: “Người xứ ấy ăn ở dơ dáy đã lâu nên loài virus Corona kia cũng không nhằm nhò gì.”
 
 Cơn dịch ngày càng nặng nề,mọi người phải ẩn trốn trong nhà, mọi việc đình trệ và ngừng hết. Các nhà khoa học ngày đêm chạy đua chế thuốc nhưng chẳng có bất cứ dấu hiệu tốt đẹp nào. Thiên hạ bất ngờ khi nghe tin tông tông xứ tân thế giới bảo người ta:
 
 - Hãy dùng thuốc sốt rét để trị bọn Coronavirus kia.
 
 Thiên hạ nửa tin nửa ngờ, bọn virus thì cười nắc nẻ:
 
 - Cứ xài thuốc sốt rét thoải mái nhé người anh em!
 
 Người bệnh vẫn tăng, người chết vẫn cứ chết. Virus càng cười thì người chết càng nhiều, bất thần tông tông xứ tân thế giới laị khuyên:
 
 - Uống Lysol, hoặc đưa chất tẩy trùng vaò cơ thể để diệt virus.
 
 Lần này thì bọn virus covid-19 cười sặc sụa luôn, loài người vẫn hoang man lo sợ, các nhà khoa học loay hoay lo chế thuốc, các nhà chính trị ngày đêm chế thêm thuyết âm mưu mới, nhà sản xuất giấy, xà bông, khẩu trang, thuốc sát trùng thì hốt bạc lời to…riêng quê hương của loài tiểu yêu virus ấy thì vẫn hung hăng với chiến dịch” ngoại giao chiến lang” ra sức đổ thừa người này người kia, mạ lị chửi bới không chừa một ai, vừa lợi dụng thiên hạ ra sức chống dịch thì quậy biển đông, âm mưu độc chiếm để độc bá xưng hùng. Thế giới vẫn loay hoay chống dịch và cũng chẳng biết xử lý thế nào với lũ chiến lang kia.
 
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 5/2020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày Đại Lễ Phật Đản đã được Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Columbo của Tích Lan năm 1950 ấn định là ngày Rằm tháng tư Âm Lịch hay ngày trăng tròn tháng Vesak của Ấn Độ, tức tháng 5 Dương Lịch. Kể từ đó, các tổ chức Phật Giáo trên thế giới đều lấy ngày này làm ngày lễ chính thức kỷ niệm Đức Phật Đản Sinh. Theo đề nghị của 34 quốc gia có đa số người dân là Phật tử, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trong phiên họp lần thứ 54 vào ngày 15 tháng 12 năm 1999 đã thông qua Nghị Quyết tuyên dương tinh thần từ bi, trí tuệ và hòa bình của Đức Phật và chính thức tổ chức Ngày Đại Lễ Vesak vào tháng 5 để kỷ niệm đức Phật đản sinh, giác ngộ và nhập niết bàn. Nhân mùa Phật Đản lần thứ 2644 năm nay, xin trích dịch câu chuyện về cuộc đời của đức Phật do Bhikkhu Bodhi viết trong bài “The Buddha and His Dhamma” [Đức Phật và Giáo Pháp Của Ngài]. Bhikkhu là tiếng Nam Phạn (Pali) chỉ giới phẩm Tỳ Kheo của một vị xuất gia trong Phật Giáo. Vì vậy, Bhikkhu Bodhi là Tỳ Kheo Bodhi.
Thành phố của tôi đích thực là Hà Nội: tôi sinh ra ở đó, tôi đã sống trọn vẹn thời tuổi trẻ ở đó. Nhưng tôi có một ông bác ưa phiêu lưu, sớm rời bỏ thành phố sinh trưởng, đi bén rễ ở một nơi mà ngày nhỏ tôi tưởng như xa xôi lắm. Đảo Phú Quốc ở mãi tận cùng đất nước. Những giấc mơ tuổi trẻ của tôi thường hướng về chân trời thật xa đó. Những giấc mơ cũng có khi hiện thành sự thật với những gánh hát tự miền xa tới trình diễn. Bao nhiêu đêm rực rỡ ánh sáng tiền trường, vang vang tiếng ca giọng nói của miền xa
Ngày 30 tháng 4 năm 2020 đánh dấu 45 năm Miền Nam Việt Nam thất thủ. Khởi đi từ đó dù cuộc chiến bom đạn đã chấm dứt trên quê hương nhưng lại mở ra một trận chiến âm thầm khốc liệt và đau thương khác cho dân tộc. Đó là cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, giữa tự do và độc tài, giữa nhân đạo và bất nhân mà bằng chứng cụ thể là hàng triệu người dân ruồng bỏ chế độ độc tài đảng trị tàn bạo cộng sản ra đi bằng đường bộ và đường biển khiến cho cả triệu người phải vùi thây dưới lòng đại dương hay chôn thân trong rừng sâu núi thẳm. Từ bối cảnh đó hai chữ “thuyền nhân” ra đời trong sự thức tỉnh của lương tâm nhân loại trước định mệnh nghiệt ngã của dân tộc Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20. Trong ý nghĩa này, thuyền nhân là những người dám xông vào cõi chết để tìm đất sống.Tại sao phải bỏ nước ra đi? Tại sao một dân tộc có lịch sử mấy nghìn năm kiên trì bất bại bám giữ từng tấc đất của ông bà tổ tiên để lại như người Việt Nam lại phải chọn lựa cho mình con đường bỏ nước ra đi đầy hung hiểm
Ba người đàn ông ngồi quây xung quanh cái bàn gỗ tròn trong quán và cùng hướng về phía quốc lộ chạy mất hút vào trong rừng cao su ở hai bên. Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc nhà, sát cạnh con đường đất xe hơi có thể vào, ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố là đồn dân vệ rào ba lần thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá và quần xà lỏn, một chân co lên mặt ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo ka-ki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lãnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả màu, trước một ly cà phê sữa. “Có lẽ tụi nó về hết rồi.” Ông già nói. “Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa về.” “Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mày thuộc hết số xe còn gì? Thằng này điếm quá.” “Ờ... tôi nhớ nhưng biết cái nào tới trước cái nào tới sau?”
Nhân loại đang đối phó với một trận dịch bệnh vô cùng nguy hiểm. Những mong manh của đời người hiển lộ ra rõ ràng hơn. Những khổ đau không còn là chuyện nghe nói của ký ức hay chỉ đọc trong sách vở, nhưng là những gì hôm nay chúng ta nhìn thấy ngay ngoài phố, góc chợ và màn hình điện thoại. Giữa các khổ đau trùng trùng của phận người như thế, tôn giáo đã trở thành nơi nương tựa thiết thân cho nhiều người, trong đó các lời cầu nguyện và than khóc được ghi vào âm nhạc và thi ca như các bậc thang hướng về cõi an lành, nơi đó đi song song với khổ đau là hy vọng. Bài này sẽ khảo sát về bốn tôn giáo lớn của nhân loại qua mắt nhìn thi ca về khổ đau và hướng tới hy vọng, sẽ viết theo thứ tự đông tín đồ nhất --- Thiên Chúa Giáo nhiều hệ phái (31.5% dân số thế giới), Hồi Giáo (23.2%), Ấn Độ Giáo (15.0%), Phật Giáo (7.1%) --- trong đó 3 tôn giáo lớn nhất tin vào Đấng Sáng Tạo, duy chỉ Phật Giáo nói rằng không hề có Thượng Đế nào trên đời này cả.
Nhưng không. Hắn không nằm mơ. Hắn biết chắc rằng nếu đây chỉ là giấc mơ thì chủ đích trở về thực tại đã không thất bại. Hắn đã không tỉnh dậy. Cảm giác mềm mại của lớp vải bên trong quan tài, hắn cảm thấy, cùng lúc cái “mùi thối” trở lại, thối khủng khiếp, thối đến nỗi hắn đâm ra nghi ngờ, không biết đó có phải “mùi thối” của chính mình không. Hắn muốn nhìn bà con dòng họ hắn trước khi hắn tan rữa, và cảnh tượng một đống thịt thối rữa hiện ra trước mắt chắc hẳn sẽ làm họ chết khiếp vì kinh tởm. Hàng xóm sẽ xúm nhau bỏ chạy, ai nấy lấy khăn tay che miệng, và nhổ nước bọt liên hồi. Không. Không thể thế được. Tốt hơn họ phải đem hắn đi chôn ngay. Tốt hơn phải dẹp bỏ ngay “cái đó,” càng sớm càng tốt. Lúc này, thậm chí chính hắn cũng muốn vứt đi thân xác mình. Bây giờ hắn biết rất rõ hắn đã chết, hoặc, có sống thì cũng chẳng đáng kể, chẳng ra gì. Có khác biệt nào không? Trường hợp nào thì cái “mùi thối” vẫn ngoan cố bốc lên. Với lần bỏ cuộc này hắn sẽ được nghe lời kinh cầu nguyện
Chỉ cần lão bước thêm một bước nữa, hay nói chính xác hơn là lão đụng vào mẹ hắn, một cú bàn long cước sẽ tung thẳng vào cuống họng của lão, và tiếp đó là một cú cắm thiết chõ vào ngay giữa trán lão. Cú đòn này hắn đã luyện suốt hơn hai mươi năm nay, từ thời ngăn sông cấm chợ, cái thời mà các lò võ phải lén lút tập luyện lúc ba giờ sáng, các võ đài do nhà nước mở ra chỉ để đánh cuội mang tính trình diễn và những võ sĩ thực thụ không bao giờ bước lên võ đài ấy. Hắn luôn sống trong hối hận và ăn năn.
Nhớ lại năm 1407, quân Minh xâm lược Đại Việt ta, cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải sang Kim Lăng, nước Tàu. Nguyễn Trãi khóc tiễn cha đến tận ải Nam Quan thì Nguyễn Phi Khanh khuyên ông trở về mưu đồ phục thù và rửa hận cho cha bằng con đường cứu nước. Nói tới Nguyễn Trãi mà tiếc cho nước mắt của ông. Ngày xưa, khi tiễn cha bị đày qua Tàu nước mắt Nguyễn Trãi đã thấm ướt cửa ải nước Việt. Ngày nay Ải Nam Quan đã thuộc phần đất của Tàu, thế thì nước mắt ngày xưa của Nguyễn Trãi nay đã trở thành giọt lệ khô trên đất Tàu vậy.
Bây giờ, mỗi lần đi coi hát, nhìn thấy những diễn viên thủ những vai phụ, tôi lại chợt nhớ đến Liêm. Tôi nhìn lên những diễn viên đó (những diễn viên mà suốt một vở tuồng chỉ xuất hiện vào khoảng độ mười phút trở lại) lòng se sắt một nỗi buồn. Hình ảnh của họ là hình ảnh của Liêm mười năm về trước. Cũng những vai trò tầm thường ấy, cũng những câu nói ngắn ngủi ấy, có khi là một vai lính hầu suốt buổi hát chỉ chờ để “Dạ” một tiếng thật lớn, có khi là một vai tướng cướp, một tên côn đồ hung dữ mà vở tuồng chưa qua khỏi màn đầu đã bị giết chết. Tôi nhìn họ, nghĩ đến những chiếc tàu nằm ở những ga hẻo lánh, suốt đời chỉ giữ có mỗi một nhiệm vụ là đẩy giúp những con tàu chính lên khỏi một đoạn đèo dốc. Ngày xưa, đã có lần tôi ví Liêm là chiếc đầu tàu xe lửa đó.Liêm với tôi quen nhau hết sức tình cờ. Ngày ấy tôi đi theo một đoàn hát cải lương lưu diễn quanh năm tại các tỉnh miền Bắc. Tôi giữ vai trò cũng không lấy gì làm quan trọng lắm trong đoàn hát này. Suốt ngày, tôi chỉ có một nhiệm vụ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.