Hôm nay,  

Giã Từ Bùi Bích Hà

19/07/202110:11:00(Xem: 7347)
Bui Bich Ha
Nhà Văn Bùi Bích Hà.(Hình YouTube trong chương trình 40 Năm Nhìn Lại do Hương Thơ phòng vấn Bùi Bích Hà)

Được tin cô Bùi Bích Hà đã vĩnh viễn ra đi, tôi vô cùng sửng sốt và đau đớn. Cô là một nhà văn nữ có tiếng, đã xuất bản nhiều tác phẩm giá trị. Gần đây, tháng 10 năm 2018, Đèn Khuya của Bùi Bích Hà do Người Việt Books xuất bản gồm hai tập, mỗi tập gần 500 trang. Có lẽ đã có nhiều bài viết về sự nghiệp văn chương của Hà, cho nên phần tôi, tôi chỉ xin được phép nhắc nhở một số kỷ niệm giữa Hà và chúng tôi. 

Trước hết về vấn đề xưng hô. Tôi không quen gọi Hà là “chị”. Gọi như thế, tôi cảm thấy nó khách sáo, lạnh lùng, trong khi chúng tôi đã quen biết nhau từ lâu lắm.  Tôi vẫn gọi “cô Hà”, hoặc “Hà” và xưng là “tui”, trong khi Hà gọi tôi là “anh” và tự xưng là “Hà” hoặc “tôi”. Xưng hô trong tiếng Việt rất phiền phức và tế nhị.

Hồi còn ở Huế, Hà học khác trường và sau tôi mấy lớp. Nhà của tôi lại gần ngôi biệt thự của đại gia đình cô Hà. Do đó tôi và vài thằng bạn, cái thứ con trai tấp tểnh mới lớn, ở gần đấy, làm sao mà không dần dần khám phá ra rằng vùng mình có một “cô Bắc Kỳ xinh xinh, nho nhỏ”. Thật ra Hà gốc Bắc, nói tiếng Bắc giọng Hà Nội nghe thật nhẹ nhàng, trôi chảy, êm ái, nhưng sinh tại Huế. Chẳng biết mấy thằng kia có để ý nhiều đến người đẹp hay không, nhưng tôi không thể quên cái dáng xinh xinh đó đi học về một mình dẫn chiếc xe đạp từ con đường nhỏ đi sâu mất hút vào trong một khu vườn thâm u, kín cổng cao tường. 

Nhà của Hà nhìn ra một cánh đồng khá rộng. Những ruộng lúa xanh rì. Đến mùa lúa chín, là cả một cánh đồng vàng. Nhưng khi mùa đông mưa giầm, gió bấc, rét mướt về, cảnh vật thật thê lương. Cánh đồng ngập nước mênh mông trắng xoá, người Huế gọi nước lụt ấy là nước bạc, lội xuống lạnh thấu xương. Tôi nhớ trong một truyện ngắn của Hà có hình ảnh cánh đồng mùa lụt ở Huế. Thêm vào đấy, ngày đêm vang đi rất xa tiếng ểnh ương đều đều, và buồn “thúi ruột”. Từ cổng nhà Hà nhìn xéo sẽ gặp một ngôi chùa nhỏ, không biết mang tên gì, thường được gọi là chùa Áo Vàng, vì các vị sư mặc áo vàng.

Thời gian trôi qua quá mau, chúng tôi xa nhau. Đúng ra hồi đó Hà có biết tôi là ai đâu  mà bảo là “xa nhau”. Tôi vào Sài Gòn. Sau một thời gian, được tin Hà đã xong Đại Học, làm cô giáo môn tiếng Pháp tại một trường Trung Học, và đã lên xe hoa. Thế là “cô Bắc Kỳ xinh xinh, nho nhỏ” đã là người lớn. Thế là hết tuổi mộng mơ. Của ai nhỉ, của Hà hay của tôi? Từ đấy, bặt âm vô tín.

Qua xứ Mỹ này, tôi bắt đầu viết lách. Vào lúc sinh thời của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tôi gặp lại Hà tại nhà anh ấy ở Orange County, Nam Cali. Dường như tháng nào cũng có một buổi họp mặt tại nhà anh chị Giác. Khi có bạn văn nào đến thăm Tiểu Sài Gòn, lại cũng họp mặt chào đón. Hà đến đấy đều đặn, tôi cũng thế. Chúng tôi gặp lại nhau sau bao nhiêu năm bặt tin, xiết bao vui mừng, sau khi tôi “thành thật khai báo” ngọn ngành cho Hà biết tôi là ai. Nhìn lại Hà, tôi cũng nhận ra mấy nét quen thuộc ngày xưa dù nay Hà đã có con, có rể. Nét nổi bật toả sáng nơi Hà là sự niềm nỡ, chí tình, và cung cách cư xử ân cần, nhẹ nhàng, thân thương.  

Thỉnh thoảng đến dự những Đại Hội Nhớ Huế, hoặc Hoàng Tộc, tôi lại gặp Hà. Hà rất trân quý xứ Huế, từ cảnh vật, thời tiết, con người, giọng nói cho đến phong tục, tập quán, món ăn, thức uống, vân vân. Và ngược lại các tổ chức liên quan đến Huế đều xem Hà như một thành viên cốt cán.

Thế rồi Nguyễn Mộng Giác qua đời trong sự thương tiếc của mọi người. Và cũng đáng tiếc không kém, các buổi họp mặt đó thưa dần và chấm dứt.  Nhưng Hà và chúng tôi vẫn quyết tâm tìm nhau.

Chúng tôi gồm Bùi Bích Hà, Lê Trọng Ngưng, Tống Kim Chi, Phạm Tạo, anh chị Nguyễn Đình Cường, và tôi, bèn họp thành một nhóm nhỏ mỗi tháng gặp nhau một lần tại nhà riêng của mỗi người, hay tại nhà hàng. Ăn uống, chuyện trò, nghe nhạc. Chúng tôi đã gặp nhau như thế nhiều lần. Ngoài ra, chúng tôi dự định sẽ cùng nhau đi cruise, hoặc thuê xe kể cả tài xế đi thăm các thắng cảnh của Nước Mỹ mênh mông này, nhất là các tiểu bang, thành phố nằm ven Đại Tây Dương. Ở bờ Tây, mơ tưởng đến bờ Đông. Hà là một trong vài người hết sức tán đồng dự định nói trên.

Chưa thực hiện được đự định đó thì đại dịch nổ bùng. Chúng tôi bảo nhau chờ vậy, chờ thuốc chủng, chờ cơn dịch lắng xuống, rồi hẵng cùng nhau tổ chức những chuyến đi xa. 

Chờ lâu quá chưa thấy có tin tức gì lạc quan, Hà có vẻ sốt ruột, đề nghị rằng chưa đi xa được thì ta cứ việc gặp nhau tại nhà, vì các tiệm ăn chưa được phép mở cửa, miễn là nhớ cách ly, đeo khẩu trang, không bắt tay, vân vân. Thế là khỏi sợ gì nữa. Anh em có người đồng ý, có người không, có người lại bảo sẵn sàng tham gia nhưng con cái không cho bố mẹ đi. Lại phải chờ.

Sau khi đã có thuốc chủng, Hà và Tống Kim Chi mời mọi người đến quán Ngọc Sương trên đường Brookhurst. Quán lúc ấy chưa được phép mở cửa “thả giàn”, chỉ 25% thôi, trang hoàng thật lộng lẫy, thức ăn thức uống ngon lành và đầy đủ. Tuy thế, khi chúng tôi vào, trong quán chỉ một bàn có khách ngồi. Chúng tôi chiếm bàn thứ hai cách xa bàn đó.  

Bữa tiệc “bỏ túi” vui quá sau gần một năm không gặp mặt nhau. Ai nấy đều lớn tuổi nhưng ham vui nên ăn uống như hạm, chuyện trò nổ như pháo ran. Hà là người vui nhất, nói năng ý nhị và say sưa nhất. Xong tiệc, chúng tôi sắp xếp chương trình chi tiết sẽ đến nhà ai trước, rồi tiệm nào. 

Một vài người trong nhóm vì công việc riêng phải đi xa, chúng tôi đành phải hoãn lại cuộc họp mặt tại nhà.  


Thứ Năm tuần trước, được tin Hà bị té ngã tại nhà, phải vào bệnh viện. Hà sống một mình, khi té ngã không ai biết, nên vào bệnh viện trễ. Hà bị bất tỉnh hơn 5 tiếng đồng hồ mới được đưa đi cấp cứu, thì đã quá muộn. Số mệnh thật oái ăm. Một người như cô Hà, yêu đời, tích cực, thương mến gia đình và bạn bè, lại ra đi sớm hơn chúng tôi. 

Hôm nay Thứ Tư, 14 tháng 7 năm 2021, khi tôi viết những dòng này, thì được tin nhà văn Bùi Bích Hà vừa qua đời. Tin buồn về Hà đã vào bệnh viện và không thể cứu chữa nổi đã đến với chúng tôi, nhưng nay Hà thật sự ra đi càng khiến tôi bàng hoàng, ngẩn ngơ. Bạn bè trong và ngoài nhóm gọi nhau qua điện thoại, ai nấy đều ngậm ngùi. Có bạn tìm an ủi: chị Hà ra đi như thế cũng là điều hay, tránh được những đau đớn về thể xác.

Cầu nguyện nhà văn Bùi Bích Hà sớm yên vui nơi cõi vĩnh hằng.

14/7/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
Văn học về sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết là một chủ đề cần thiết cho nhà văn sáng tác tác phẩm hư cấu bằng tiếng việt. Những nhà văn không học tập theo lề lối chính quy thường tự tin vào khả năng sáng tạo bẩm sinh và khả năng thu thập kinh nghiệm, gọi là “khiếu”, để trở thành nhà văn tự nhiên, cũng đôi khi là nhà văn bỗng nhiên. Những nhà văn được huấn luyện từ trường ốc, nếu không thường xuyên cập nhật văn học sáng tác đương đại, sẽ lỗi thời. Những nhà văn nổi bật trong lịch sử văn chương, thông thường là những người có khả năng tự học rất cao. Song song với sáng tác, họ là những nhà văn học lỗi lạc, cho dù, có thể họ không viết một điều gì về nghiên cứu phê bình. Tôi không phải là người có “khiếu” văn chương cao, cũng không thông qua quá trình học viện hoặc trường lớp sáng tác, chỉ có ý thích tìm hiểu văn học và thử nghiệm những gì đã nghiên cứu. [Không phải là lời khiêm nhường mà là lời trung thực.] Và “Nhận Thức Bảy T” là một phần góp nhặt mà tôi đã kinh qua.
Không có gia đình văn chương nào khiến người đời mãi mê nhắc tới như nhà Brontë. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, bao nhiêu thế hệ độc giả, học giả, nghệ sĩ đã lần lượt quay lại ngôi giáo đường nhỏ ở Yorkshire như hành hương về một thánh địa. Những tiểu sử, kịch bản, phim ảnh, cả những vật dụng tầm thường nhất như khăn trải bàn in hình ba chị em, tất cả tạo thành một nền công nghiệp ký ức, một tín ngưỡng lạ lùng quanh họ. Người ta cứ tìm cách viết thêm, kể thêm, như thể câu chuyện Brontë chưa từng trọn vẹn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.