Hôm nay,  

Cung Tích Biền Ra Mắt Sách Mừng 65 Năm Cầm Bút

17/10/202109:35:00(Xem: 3824)

 

blank

Đặng Thơ Thơ (phải) nói về tác phẩm Cung Tích Biền (thứ 2 từ phải).

  

 

Nhà văn Cung Tích Biền hôm Thứ Bảy 16/10/2021 đã thực hiện buổi ra mắt sách tại quán Café & Té, Fountain Valley, với tham dự của nhiều văn nghệ sĩ.

Nhà văn Đặng Thơ Thơ trong lời giới thiệu nói rằng buổi ra mắt sách này cũng là tròn kỷ niệm 65 năm viết văn, và là tròn 55 viết văn với bút hiệu Cung Tích Biền.
 

Hiện diện trong buổi ra mắt sách có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, ca sĩ, họa sĩ… trong đó có:  Nhã Ca, Phạm Phú Minh, Trịnh Y Thư, Trịnh Thanh Thủy, Vương Trùng Dương, Nguyễn Thanh Huy, Đặng Thơ Thơ, Paulina Dam, ca sĩ Thu Vàng, Thân Trọng Mẫn, Đặng Phú Phong, Lê Giang Trần, Phạm Quốc Bảo, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Đình Thuần và phu nhân, Mai Tất Đắc và phu nhân, Lê Phước Bốn, Nguyễn Hà và phu nhân…

 

Cùng nổi bật trong buổi ra mắt sách là phu nhân của nhà văn Cung Tích Biền. Người sắp xếp, mệt nhọc nhất trong buổi ra mắt sách này là chị Hoàng Thi Kim, phu nhân của nhà văn, cũng là người mà nhà văn Cung Tích Biền từng ghi nhận rằng: “Từ năm 2000 đến nay Hoàng Thị ăn chay trường. Thuộc nhiều kinh Phật, nghiên cứu kinh Dịch, rất giỏi phong thuỷ. Sớm mai thường trực tụng kinh. Chiều chiều đi chùa. Nói chung, tôi xin cảm ơn Phật Bà Quán Thế âm.” (Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, trang 97) 

 

blank

Từ phải: Cung Tích Biền và phu nhân Hoàng Thị Kim, Nhã Ca, Đặng Thơ Thơ, Trịnh Y Thư (ngồi).

 

.

Trong các sách nhà văn Cung Tích Biền giới thiệu hôm Thứ Bảy có 3 sách được nhiều nhà phê bình văn học chú ý thời gian qua:

--- Bạch Hóa, tập truyện ngắn, 230 trang.

--- Nhạc Điệu Của Bầy Ong, tập truyện ngắn, 250 trang.

--- Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, tuyển tập các bài phỏng vấn nhà văn Cung Tích Biền thực hiện bởi Lý Đợi, Mặc Lâm, Đặng Thơ Thơ, Tuần báo mạng Da Màu, Phạm Viêm Phương, 328 trang.

.

blankBìa sách

.

Nhà văn Cung Tích Biền nói rằng ông trước giờ chưa từng ra mắt sách, nhưng qua đây là cơ duyên hy hữu nên muốn tiếng nói được nghe nhiều hơn. Ông dự kiến sẽ ra mắt 5 cuốn sách mới vào tháng 4/2022. Ông nói đó là những tác phẩm chưa từng được in chính thức ở Việt Nam, mà khi còn ở Việt Nam ông chỉ in chui một số với ấn phẩm hạn chế, đó là một thời vô cùng cực khổ, qua đây thật là hạnh phúc lớn lao.

 

Trả lời phỏng vấn riêng của Việt Báo, nhà văn Nhã Ca đã nói: “Trước 1975, cùng thời, đã đọc sách Cung Tích Biền. Sau 1975, hoàn toàn không gặp nhau. Gần đây, nhà văn Cung Tích Biền tới Hoa Kỳ, lại viết. Thế là lại đọc. Sẽ đọc 3 cuốn sách mới và biết rằng, lối viết Cung Tích Biền càng già như gừng, càng già càng cay. Mừng nhà văn Cung Tích Biền.”

Cả 3 sách trên đều do nhà xuất bản Thao Thao ấn hành. Độc giả có thể đặt mua ở email:

[email protected]

.

 

 

Trong tuyển tập truyện ngắn Bạch Hóa, nơi Phụ Lục 2, trang 226, có ghi nhận định của nhà thơ Du Tử Lê về văn chương Cung Tích Biền:

"Với tôi, Cung Tích Biền là một biệt lệ. Càng bước gần tuổi tám mươi, bút lực của ông càng sung mãn; với một tâm thái bát ngát minh triết, chứa chan những hồi chuông nhân bản, lai tỉnh xã hội càng lúc càng biến dạng. Quái thai.

Chọn cho mình một chân trời chữ nghĩa mới. Chân trời hư huyễn máu, xương, những trang văn của Cung Tích Biền như những tấm gương chói lọi nỗi buồn và niềm đau kín kẽ. Ông mặc khoác cho hư huyễn, cho ẩn dụ văn chương của ông, chiếc áo thời thế. Ông đi giầy, mang vớ cho hư huyễn truyện của ông... Rất nhiều thành tựu ngời ngợi chữ-nghĩa-hôm-nay của Cung Tích Biền.

Tôi muốn nói, dù phải sống với oan khiên, như vết chàm, như chiếc bóng định mệnh bất hạnh đời mình, nhưng, cuối cùng, họ Trần vẫn không hề lỗi hẹn với văn chương. Chẳng những thế, ông còn cho chữ và, nghĩa của ông, những khấp báo trầm thống!

Ông là một nhà văn miền Nam, sau biến cố 1975, xứng đáng với hai chữ Nhà-Văn-viết-hoa." (Bạch Hóa, trang 226)

.

  

blank

Hình phải: Họa sĩ Nguyễn Đình Thuần (đứng) và Cung Tích Biền. Hình trái, từ phải: Thành Tôn, Trịnh Thanh Thủy. Người áo đỏ là ca sĩ Thu Vàng.

 

.

Truyện "Anh em cùng một mẹ" của nhà văn Cung Tích Biền, in trong tuyển tập truyện ngắn "Nhạc Điệu Của Bầy Ong" ghi nhận hình ảnh bi thảm quê nhà. Nơi đó, bà mẹ có những đứa con hai bên chiến tuyến. Nhân vật tên Bá Quyền là anh, từ Bắc vào Sài Gòn sau 1975, tới thăm đứa em trai là một thương binh Việt Nam Cộng Hòa. Trích đoạn nơi đây là trang 92-94, cô gái trong trích đoạn này là con của anh thương binh VNCH:

 

"...Bá Quyền nhìn người chống nạng, hỏi:

- Bao nhiêu năm xa cách, lúc gặp nhau chú không chào tôi à?

Người chống nạng trả lời:

- Anh phải là người mở lời trước.

- Sao vậy?

- Vì sao các anh đã hiểu.

Cô gái rót hai tách nước lã. Lễ phép vòng hai tay trước ngực mời khách:

- Dạ, mời bác uống nước.

Bá Quyền nhìn cô gái xinh đẹp nói:

- Có gì phải vòng hai tay?

Người cụt chân nói:

- Đây là Miền Nam. Giáo dục của chúng tôi là vậy. Lễ phép với mọi người. Hòa nhã, giúp đỡ phụ nữ, trẻ em, người già cả. Ra đường gặp đám tang, nhường đường, đứng yên, ngả mũ chào. Xã hội này lạ lẫm với các anh nhiều lắm.

Quyền nhận ra người chống nạng, một người em ruột của mình, đang tỏ rõ thái độ. Người em không hề là kẻ đầu hàng, cần sự quỵ lụy người thân thế để nương nhờ, nên Quyền bẻ ngang câu chuyện. Anh ta hỏi về người em ruột khác, tức là anh ruột người cụt chân – kẻ đang chống nạng không chịu ngồi thân mật trò chuyện – với một giọng hách dịch:

- Vậy chú Tần đang ở đâu? Chạy sang Mỹ chắc?

- Chạy đi đâu? Chiến đấu tới phút cuối cùng ở phòng tuyến Xuân Lộc. Bây giờ đang trong trại tù của các anh.

Bá Quyền rao giảng:

-Trung tá ngụy thì phải trình diện học tập chớ. Mà tội lỗi các chú nhiều lắm. Các em trai của tôi hồi nhỏ đứa nào trong cùng một nhà với tôi đều hiền từ, sau này các chú lại đi theo giặc, trở nên tội lỗi với nhân dân. À, mà chú cũng đại úy ngụy hà? Nghe chú làm quận trưởng?

Người cụt chân không trả lời. Ông chống nạng bước ra hàng hiên, rít một hơi thuốc. Gót chân nạng không được bọc cao su. Tiếng gỗ lịch kịch trên sàn nhà. Một dội vang đều đều, âm vang của kỳ ngộ giữa hoạn nạn với máu xương một đời người. Ông nghe chỗ vết thương cũ, trận chiến đã trôi qua nhiều năm, nay tuy lành lặn nhưng vẫn nhói đau. Đau xa xăm. Một nỗi đau có-nắng-có-đau, còn-mưa-còn-nhớ." (Nhạc Điệu Của Bầy Ong, truyện Anh em cùng một mẹ, 92-94)

.

 

blank

Hình trái: CTB và Lê Giang Trần. Hình phải: CTB và Nguyễn Thanh Huy.

 

.

Trong tuyển tập Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, nơi đây xin trích đoạn câu hỏi cuối của Lý Đợi và câu trả lời của Cung Tích Biền:
 

"Lý Đợi: Trước khi đi uống rượu, qua bài phỏng vấn này, ông có muốn thỉnh cầu một điều gì không?

Cung Tích Biền: Nhân đây tôi có một thỉnh cầu (không phải kêu xin, vì nếu làm đơn xin thì 30 năm nay tôi đã làm rồi) với Nhà nước CHXHCN Việt Nam như sau:

CHỈ GIÙM TÔI NƠI CHÔN CẤT HAI NGƯỜI ANH RUỘT CỦA TÔI.

Người thứ nhất: ông Trần Ngọc Biền, vào bộ đội năm 1952, chết năm 1969, tại vùng núi Nghĩa Đàn, Nghệ An. Anh có nhiều huy chương và bằng khen thưởng, có cả chữ ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp...

Người thứ hai: ông Trần Ngọc Tấn, sĩ quan cấp tá quân lực VNCH. Có đi trình diện sau tháng Tư 1975, đi học tập và chết trong trại cải tạo. Gia đình chỉ được thông báo cái chết từ năm 1978 mà không biết nơi chôn cất.

Tôi, Trần Ngọc Thao, năm nay 2007 cũng đã ở tuổi cổ lai hy, nếu được quy kết mộ 2 ông anh ruột cũng là một thoả lòng. Nhà nước giúp tôi việc này cũng là phù hợp với Đạo lý Việt Nam." (Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, trang 99-100)

.

blank

Hình trái: Trịnh Thanh Thủy phỏng vấn Đặng Thơ Thơ. Hình phải, từ trái: Phạm Phú Minh, Bùi Vĩnh Phúc, Trịnh Y Thư.

 

 .

Có thể nói ngắn gọn rằng, trong khi viết văn, Cung Tích Biền đã cùng lúc ghi lại cả những phần đau đớn một thời trong dòng chảy lịch sử của dân tộc. Nhiều người chúng ta chỉ còn trong ký ức thời đi học về huyền thoại một mẹ trăm con như là cổ tích rất xa. Nhưng Cung Tích Biền đã nhìn thấy như hình ảnh tiên báo, không phải như một huyền thoại nghìn năm trước, nhưng đó là chuyện rất gần, rất thực. Trong truyện, đó là những người mẹ cổ tích nhìn con chia ly trong đời thường, những người mẹ có đàn con – không chỉ chứng kiến các con chia lối đi hai bờ núi/biển nhưng mẹ đã kinh hoàng, đã đau đớn khi thấy các con săn lùng bắn giết nhau. Để rồi rất nhiều người con đã chết bờ, chết bụi ở cả hai miền trong cuộc chiến và sau cuộc chiến. Nơi đây, trang giấy Cung Tích Biền đang vọng lại âm vang tiếng khóc sụt sùi của những người mẹ trăm con hai miền.

Độc giả quan tâm có thể đặt mua ở email: [email protected]

.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn, nhà thơ Viên Linh (1938-2024) vừa ra đi. Ông tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20/1/1938 tại Hà Nam, từ trần ngày 28/3/2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết này để đưa tiễn nhà thơ Viên Linh, người mà tôi hân hạnh có nhiều năm thân cận tại Quận Cam, California. Tôi thuộc thế hệ sau nhà thơ Viên Linh rất xa, nên những gì biết và tương tác với nhà thơ chỉ là một góc nhìn. Tôi hân hạnh được gọi nhà thơ Viên Linh là "anh" theo thói quen giao tiếp trong giới văn nghệ, cũng như tôi đã gọi anh Mai Thảo, anh Nhật Tiến, anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ, chị Nhã Ca... trong những buổi gặp nhau ở Quận Cam. Thật sự họ cách biệt tôi rất nhiều, vì họ đã hiện ra như các ngọn núi huyền thoại của văn học Miền Nam trước 1975. Và tôi đã có cơ duyên làm người bạn trẻ của họ. Và cũng là người viết các bản tin về họ, vì tôi phụ trách mục tin tức trên tờ Việt Báo. Trong các bài viết hay bản tin trước giờ về Viên Linh, đôi khi tôi gọi Viên Linh là anh, đôi khi gọi là ông.
Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy.” Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan.”
Cùng một thời điểm làm “Thơ Tình”với Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương, nhưng có một cái gì rất khác với hai thi sĩ này. Thanh Tâm Tuyền mở ra cho chúng ta một trang Thơ Tình rất lạ, rất khác, rất kén độc giả nhưng vô cùng quyến rũ. Nhân kỷ niệm ngày qua đời của Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền, tôi muốn nói về 2 bài Thơ trong số những bài Thơ tôi yêu thích của Thanh Tâm Tuyền...
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả. Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò...
Nhà sư, nhà thơ, nhà thư pháp Thích Nhuận Tâm cho biết sau khi thầy hoàn tất Lớp hướng dẫn thư pháp tại Huntington Beach, California cuối tuần này, Thầy sẽ bay sang Houston, Texas để sẽ hướng dẫn một lớp thư pháp dự kiến sẽ mở ra tại Tịnh Xá An Nhiên ở Houston.
Bài thơ Lời tình buồn được nhạc sĩ Vũ Thành An phổ nhạc năm 1967, khi nhạc sĩ và thi sĩ Chu Trầm Nguyên Minh cùng đang theo học lớp Sĩ quan tại quân trường Lam Sơn, Đồng Đế, đến nay đã trở thành một trong những ca khúc vượt thời gian, được thể hiện qua những giọng ca: Tuấn Ngọc, Khánh Ly, Bằng Kiều…
Trong một bối cảnh đất nước nhiễu nhương, hỗn loạn, nhà văn thường đóng một vai trò quan trọng bằng cách sử dụng ngôn từ của mình để phản ánh, phê bình, truyền cảm hứng và đôi khi thậm chí thách thức hiện trạng. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhà văn phản ứng với những biến động khác nhau, cho dù đó là xã hội, chính trị hay văn hóa...
Tết và Xuân, Xuân và Tết, thời điểm kỳ lạ trong một năm. Vừa trông chờ vừa mong đừng đến. Vừa lưu luyến rét đông vừa háo hức xuân ấm. Vừa khép kín đoàn tụ gia đình vừa chan hoà xôn xao lễ hội. Vừa lặng lẽ hoài niệm chuyện riêng tư vừa hân hoan cùng nhau “nâng chén ta chúc nơi nơi”...
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.