Hôm nay,  

M Ộ T C H U Y Ệ N T Ì N H

9/5/202215:24:00(View: 2713)
minh hoa truyen DuongNghiemMau-1
minh họa Đinh Cường


Ra khỏi cái toa đen nồng nặc mùi nước giải và mùi thuốc sát trùng, khách ngoái nhìn cái đầu máy đang xì xì phả hơi nước:
- Thế là kết thúc, kết thúc thật rồi, một đoạn đời khốn nạn của ta.
Anh lững thững bước vào ga. Trên sàn rộng không còn một chỗ trống. Tiếng ngáy đủ mọi cung bậc bay lên vòm trần.
- Mà lạ, sao mình không cảm thấy vui, cũng chẳng thấy buồn?
Anh vặn người. Mấy đốt sống kêu lục cục. Lúc lắc nhiều giờ trên tàu, anh mệt, anh muốn nằm.
Ngả lưng giữa đống người kia ư? Quang cảnh trước mắt làm anh phát gớm. Chặc lưỡi, anh len ra ngoài.
– Mình đi đâu bây giờ? Không thể đến nhà ai vào giờ khuya khoắt này. Mà liệu còn có ai chờ đợi mình?
Đêm hè. Gió mát. Mấy con chuột cống béo núc chạy loăng quăng trong rãnh hè.
- Này, lượn gì mà lượn mãi. Không chán à?
Có tiếng gọi. Tiếng con gái.
- Đi không?
Tiếng gọi hướng về anh. Ngoái lại, anh thấy một người đứng tựa lưng vào tường – một cô gái trẻ, thanh mảnh, cặp vú nhỏ nhú lên dưới lớp vải mỏng màu xanh của kiểu áo thời thượng có tên “thắt cổ mổ bụng”.
- Đi đâu cơ? – anh không hỏi cô gái, anh tự hỏi - Tôi chẳng có đâu để mà đi, cô ạ.
Cô gái dợm bước về phía anh:
- Sao lại chẳng có đâu để mà đi?
Anh cười. Cái cười vô nghĩa:
- Thật mà.
Cô nhoẻn cười:
- Thì đi với em.
- Cô bảo sao?
- Ông anh chờ tàu hở? Hai tiếng nữa mới có tàu xuôi, còn khối thời giờ.
- Không. Tôi không chờ tàu. Đây là ga cuối rồi.
- Ông anh không về nhà?
- Không.
- Sao thế?
Anh lúng túng.
- Tôi vừa ra tù, cô ạ.
- Thì đi giải đen với em. Rẻ thôi. Nhé?
Cô túm tay áo anh.
- Không được, cô ạ.
- Sao lại không được?
- Tôi không có xu nào trong túi.
- Thế thì lượn làm gì?
Anh không tìm được câu trả lời. Anh lặng thinh.
Dưới ánh sáng nhợt nhạt của ngọn đèn đường bị lũ thiêu thân quây thành vồng, anh ngồi trước cửa ga, tựa lưng vào bức tường đá.
Cô gái đến, ngồi xuống bên anh.
- Anh không muốn về nhà?
- Không. Tôi chờ trời sáng.
- Không về nhà thì anh đi đâu? – cô gái nhắc lại.
- Tôi đang nghĩ.
- Nghĩ thì có ra được chỗ để về không?
- Rồi tôi sẽ nghĩ ra.
Mười một năm trước anh có nó, có cái gọi là nhà - một căn phòng hẹp, trần thấp, bề bộn sách. Anh nhớ về nó một thời gian dài. Rồi quên bẵng. Mà nghĩ đến nó làm gì cơ chứ! Nó là cái nhà nước cấp cho anh. Rồi cái nhà nước ấy đưa anh đi tù. Cái phòng hết là của anh.
Hai người im lặng một lúc.
Cô gái nghiêng đầu quan sát anh:
- Khuya rồi.
- Dễ gần hai giờ.
- Ga có đồng hồ mà.
- Ờ nhỉ.
Cô gái nói:
- Hay là… thế này: ông anh về với em.
Anh thở dài:
- Tôi không có tiền, thật mà.
C6 đứng lên:
- Về với em. Không tiền nong gì hết. Em cũng có lúc như anh - chẳng biết đi đâu.
- Có tiện không?
- Đừng ngại.
Cô túm lấy tay áo anh, kéo đi.

2

Nhà của cô là chái hẹp một căn hẹp trong rất nhiều căn lúp xúp sát bên nhau. Một cái giường đơn, đúng hơn là một cái chõng. Chõng có đệm, có chăn.
Anh vứt tay nải xuống đất, nhìn cô đánh diêm châm ngọn đèn hoa kỳ. Nó lép bép mãi, không chịu bén lửa.
- Cảm ơn cô.
- Anh không có nhà thì đây là nhà
- Tôi làm phiền cô quá.
Cô sửa lại vạt chăn lơi xuống đất:
- Em cũng đã trải qua cảnh ấy.
- Thật sao?
- Không phải một lần đâu. Anh cứ nằm đây, nghỉ đi.
- Thế cô nằm đâu?
- Chõng rộng, đủ chỗ cho hai người.

3

Câu chuyện này tôi nghe ở bạn tôi. Lâu lắm rồi.
Tôi muốn kể lại trong hình thức một truyện ngắn. Với tôi, nó thú vị, nhưng viết mãi không thành. Dưới gầm bàn đầy những trang giấy vo viên. Trong tay các nhà văn câu chuyện này chỉ một loáng là xong. Tôi thì không thể. Tôi không phải nhà văn. Nhưng không viết nó ra thì tiếc.
- Ông kể tiếp đi – tôi nằn nì - Tôi muốn nghe.
- Ờ, thì kể. Nhưng chuyện khó tin đấy.
- Tôi tin.
Bạn tôi ngần ngừ:
- Nó là chuyện thật. Tôi nằm xuống cái chõng ấy và thiếp đi ngay lập tức. Giữa đêm thức giấc, tôi thấy có người nằm bên. Là cô gái ấy.
Tôi cười:
- Tôi hình dung được chuyện gì ắt phải xảy ra.
Anh nghiêm mặt:
- Bậy nào. Tôi biết, ông, và nhiều người nữa, chắc sẽ nghĩ y như ông. Rằng tôi sẽ vồ lấy cô ấy, ngấu nghiến làm cái việc con vật đực thèm khát sẽ làm. Không, hoàn toàn không phải thế. Đời tù quá dài đã làm tôi quên chuyện ấy. Nói cho đúng, tôi không nhớ tới nó. Khát vọng tự do đã che lấp mọi cảm giác.
Anh lặng đi trong hồi tưởng.
- Đó là một đêm cực kỳ hạnh phúc trong đời người. Nó chỉ xảy ra một lần, nếu anh may mắn gặp nó. Nó giống một giấc mơ. Hơi thở đều đều của người con gái không quen biết gối đầu trên tay tôi. Nó mới thơm làm sao, mới ấm áp làm sao, mới tinh khiết làm sao. Cái hương ấy chẳng bao giờ tôi quên được. Nó giống hương hoa đồng nội ở những phút hiếm hoi khi con người cảm thấy mình với thiên nhiên là một.
Tôi nghe.
- Rồi sau đó?
- Cô gái giữ tôi ở lại – anh hồi tưởng - Tôi mệt rũ. Tôi ngủ ngay lập tức.
Sáng ra, cô bảo:
- Anh cứ ở lại đây. Nhìn anh, em tin anh. Anh là người ngay thật.
- Và anh ở lại? – tôi hỏi, với một chút ngạc nhiên.
Anh gật:
- Vâng. Anh không tin?
- Tôi tin.
- Một cơn sốt rét ác tính đã giữ tôi lại. Cô gái chạy đi mời bác sĩ. Ông ta đến, làm gì, tôi không biết. Tôi mê man. Khi cơn sốt lui, tôi hiểu: cô gái đã cứu mạng tôi. Mà bằng cái gì?
Tôi chờ anh nói tiếp.
Anh lẳng lặng hồi lâu. Rồi thở dài, rất dài:
- Bằng tiền đi khách, anh ạ. Có cái ơn nào lớn hơn ơn ấy không?
Những gì tôi biết về bạn mình không giống điều tôi biết. Anh có vợ là một nhạc công tam thập lục trong một dàn nhạc dân tộc, con một học giả danh tiếng. Không phải cô gái trong chuyện anh kể.
Khỏi bệnh, tôi nói với cô:
- Em là người tốt nhất với anh trong đời. Nếu em không chê anh thì anh xin được gá nghĩa cùng em.
- Cô ấy nói sao?
Cô ấy bảo:
- Không được đâu, anh ơi. Chúng ta không thể thành vợ chồng. Anh là trí thức, em biết. Trong lúc mê man, anh lảm nhảm bằng tiếng Tây. Em không thể làm vợ anh. Anh không thể có vợ là một con điếm.
Tôi hỏi tiếp:
- Rồi sao?
- Tôi bảo: anh cũng là kẻ dưới đáy. Ta có khác gì nhau.
- Không đâu – cô ấy nói - Anh khác, em khác. Dù cùng ở dưới đáy.
- Anh rồi cũng không thuyết phục được cô ấy?
- Tôi đã cố gắng, nhưng vô vọng.
- Anh bỏ đi?
Anh buồn bã lắc đầu:
- Chính cô ấy bỏ đi. Đi đâu, không biết. Tôi đã tìm. Không phải nhiều ngày, mà nhiều tháng. Rồi mọi chuyện rồi cũng qua, như cuộc đời vốn thế. Tôi không biết gì hơn. Trong đám cưới với nhà tôi bây giờ, tôi nhận được một bó hoa vô danh do một cậu bé mang tới.
- Là của cô ấy?
- Chắc chắn. Trong bó hoa có một mẩu giấy.
- Cô ấy viết?
- Không phải. Mẩu giấy ấy là của tôi, trong đó có mấy câu thơ viết vội.
- Thơ thế nào?
- Không ra gì. Không đáng để anh nghe. Điều làm tôi xúc động là cô đã giữ nó. Như một kỷ niệm về tôi. Nay cô ấy trả lại.

Chuyện này xảy ra với một nhà thơ, bạn tôi.
Tôi chỉ ghi lại chuyện anh kể. Không thêm. Không bớt.
Anh là nhà thơ không tăm tiếng. Tên anh không có trong danh bạ các nhà thơ hiện đại.
Nhưng trong tôi anh để lại một dấu vết không phai mờ.
Nó được tạc vào ký ức. Rõ nét. Như tạc trên đá.

Vũ Thư Hiên
1987

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Năm 1988, tại Nam Cali có cuộc bầu cử ban chấp hành lâm thời của Văn bút Việt nam Hải ngoại, nhà văn Nhật Tiến làm chủ tịch. Sau đó có các ban ngành này kia truyền thông, báo chí gì đó và tôi được chỉ định làm việc với Khánh Trường. Đó là lần đầu tôi gặp anh, 1 người điệu đà, mặc đồ trắng và quần có giây lưng, tuy dáng dấp khoan thai nhưng có cái gì đó dục giã giấu bên trong và nét bất bình loáng thoáng ở hàng râu mép.
Gần đây tôi tới thăm Khánh Trường (KT) nhiều lần ở trong mấy căn nhà đầu đường rất dễ kiếm trong khu mobile home trên đường Bolsa, nhiều lần tới nỗi mỗi khi xe chạy ngang đây thì Ngọc Ánh nhắc: ‘Hay ta vào thăm KT.’ Không được tiếp xúc với KT khi tôi còn ở bên Texas, chỉ liên lạc nhiều khi đã chuyển về Nam CA thôi, lúc KT đã bị lọc thận hàng chục năm rồi. Lần nào tới cũng thấy KT lọc cọc đẩy xe lăn ra mở cửa, với nụ cười hiền trên môi và cái bắt tay rất thân thiết, chí tình. Trong những lần đó, tôi cố ý nắm tay KT thiệt lâu, lâu hơn thời gian cần thiết của những cái bắt tay bằng hữu.
Tôi chạy tới nhà thương như một quán tính, tìm chỗ đậu xe một cách dễ dàng, nơi đây tôi đã ra vào quen thuộc, nơi đây tôi sắp sống với một cuộc chia ly mới. Tôi quen lắm hành lang phòng ICU, quen lắm với hình ảnh Bác Mai Thảo, Bác Đỗ Ngọc Yến, với Bố, với Mẹ... Và nay hình ảnh một thân quen quá đỗi hiện ra trước mắt - chú Khánh Trường! đang nhắm nghiền mắt, đang thoi thóp thở... Chị Hoà Bình ôm vai tôi, siết thật chặt. Hai chị em chẳng nói với nhau một lời, nhưng tôi hiểu, cả hai chị em, đang lục tìm trong quá khứ, để sống lại những ngày thật đằm thắm bên chú.
Bây giờ thì tôi biết rồi: từ nguồn hợp lưu, những dòng chảy lại tìm về chính mình, đơn hành vào một cõi khác. Như anh Khánh Trường...
Trận đấu giữa Khánh Trường và anh Thần Chết đã qua tới phút 89. Phần thắng nghiêng hẳn về anh thần trang bị bằng chiếc lưỡi hái. Cô cháu Hòa Bình nhắn tin cho tôi vào lúc 3 giờ 45 phút chiều ngày 24/12/2024, giờ Montreal: “Chú vẫn không tỉnh. Chắc gia đình sẽ rút ống soon”. Vậy là tên thần vênh váo chuyên bắt người đang ở thế thượng phong.
Tôi bắt đầu nghe tên anh khi đọc bài viết “Khánh Trường, Sức Mạnh Của Im Lặng” của họa sĩ Đinh Cường vào tháng 1/2012 nhân dịp anh bày 30 bức tranh Thiền...
(Orange County, CA) Sau đúng hai tuần hôn mê, họa sĩ/nhà văn Khánh Trường cuối cùng đã bỏ cuộc thế gian vào chiều Chủ Nhật, ngày 29 tháng 12, 2004, lúc 4:33PM giờ California tại bệnh viện UCI Health, thành phố Fountain Valley trong niềm thương tiếc của gia đình và bằng hữu. Hoạ sĩ Khánh Trường tên thật là Nguyễn Khánh Trường, sinh năm 1948, ở Quảng Nam, gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1968, giải ngũ năm 1972 vì bị thương. Khánh Trường vượt biên đến Thái Lan năm 1987, định cư tại Hoa Kỳ năm 1988. Sự đóng góp của anh vào văn học Việt Nam hải ngoại không nhỏ vì ngoài vẽ tranh, triển lãm tranh, anh cũng là một nhà văn tên tuổi, viết với vài bút hiệu khác như Kim Thi, Nguyễn Thị Giáng Châu. Khánh Trường đã xuất bản nhiều tác phẩm và từng là chủ biên của tạp chí Hợp Lưu, Hoa Kỳ, từ 1990 đến 2005.
Một mùa bầu cử tổng thống đã đến và đi ở Hoa Kỳ. Trong khi mọi cuộc đua chính trị đều có ý nghĩa nào đó đối với công dân, thì cuộc bầu cử đặc biệt này có thể tác động đến mọi người theo những cách mới, chưa từng có trong lịch sử Mỹ. Cho dù, đó là các cuộc trục xuất hàng loạt, hay tảng băng chìm thuế quan, hay từng nhân vật “kỳ lạ” trong nội các mới do Tổng Thống đắc cử Donald Trump lựa chọn, thì đều là một ảnh hưởng đến cảm xúc và không khí của mùa lễ hội lớn nhất trong năm. Khi tác giả người Mỹ Washington Irving từ Anh trở về Mỹ, ông ghi lại những truyền thống lễ Giáng Sinh mà ông đã thấy ở các quốc gia khác trong cuốn The Sketch Book. Trong chương có tên “Christmas Eve,” ông viết: “Cây tầm gửi vẫn được treo trong các trang trại và nhà bếp vào dịp Giáng sinh, và những chàng trai trẻ có đặc quyền hôn các cô gái bên dưới nó, mỗi lần hái một quả mọng từ bụi cây. Khi tất cả các quả mọng được hái hết, đặc quyền đó sẽ chấm dứt.”
Chúng ta kể chuyện để mua vui trong chốc lát, quên đi sự đau khổ nơi trần thế, đi tìm suối nguồn ẩn mật kia và sau đó tìm cách trở lại. Chúng ta kể chuyện để phục hồi những gì đã mất, đã bị đánh cắp, đã bị ngọn lửa hận thù chiến tranh thiêu cháy rụi. Chúng ta kể chuyện để làm nên lịch sử của tình yêu. Để vượt qua sự phản bội và đương đầu với sự thất vọng nơi người khác, kẻ mà chúng ta từng ngây thơ kỳ vọng. Để một đêm nhìn lên bầu trời, nơi sao chổi Halley đi ngang qua trái đất trong những thời điểm cách nhau bảy mươi lăm năm, khi người ta có thể nhìn thấy, nhưng nó chưa bao giờ quét đuôi vào trái đất.
Hình ảnh ban đầu “Buổi chiều, đi chơi thuyền với một người bạn gái Huế vừa quen trên dòng sông Hương... Chiều mênh mông và sâu thẳm trong trời. Đó là một trong những buổi chiều đối với Ninh đáng ghi nhớ nhất. Và Ninh đã nhớ. Nhớ mãi không quên. Khuôn mặt dịu dàng và thanh xuân cửa người bạn gái in lên một nền chảy lặng lờ của con sông tưởng như không bao giờ gợn sóng. Cái đẹp của Huế, nhẹ, đã mất. Thoáng như khói sương, mang mang như một niềm ngờ vực…”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.