Hôm nay,  

Kỷ Vật

06/10/202300:00:00(Xem: 4180)

IMG_3625

 

Kỷ vật là vật kỷ niệm. Trong “kỷ niệm”  ky niem ,   chữ kỷ, nghĩa danh từ là đầu mối sợi tơ, sợi chỉ; nghĩa động từ là gỡ sợi dây ra. Niệm, nghĩa là mong nhớ khi nghĩ đến.
  

Kỷ vật, lần theo sợi thời gian tìm đến nhớ thương. 

Kỷ vật, có khi nhẹ nhàng, nhỏ nhặt, mà thắm thiết ngậm ngùi như:

Trong đáy túi chứa đầy danh thiếp cũ

Những tên người tên tỉnh đã xa xưa

Những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ

Những đường quen không trở lại bao giờ                                        

                          (Kho Tàng, thơ Cao tần.)

Kỷ vật, cũng có khi đau đớn, thảm sầu suốt đời người như:

Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng

Cho em làm kỷ niệm sang sông

Đời con gái một lần dang dở …

                  (Kỷ Vật Cho Em, thơ Linh Phượng.)

 

Kỷ vật, không trừu tượng, là một thứ gì bằng vật chất ghi lại, cưu mang, hoặc ẩn tượng một kỷ niệm nào đó. Loại kỷ niệm có động lực gợi lại những vui buồn, thương tiếc, nhớ nhung; có khả năng làm nhếch một nụ cười hoặc làm mờ khóe mắt. Có những kỷ vật dù đã mất nhưng không quên.

Mỗi đời người càng sống lâu, càng có nhiều kỷ vật. Điều này cất vào kho tàng quá khứ, có hay không, nhiều hạnh phúc đã qua mà mùi hương không bao giờ xao lãng. 

Tâm đơn giản hoặc phức tạp là do có nhiều kỷ vật quí giá hay không. Người ta tìm kiếm kỷ vật bằng cách lục lọi lại những đồ vật cũ đã cất giữ đâu đó, hoặc vô tình tìm thấy ở một nơi nào bất ngờ, hoặc quay lui vào trí tưởng.

Có những kỷ vật làm trái tim bật cười. Có những kỷ vật làm hồn tê liệt. Có những kỷ vật làm dĩ vãng mê mang. Có những kỷ vật làm hơi thở nấc lên đứt đoạn.

Kỷ vật không quan trọng lắm đối với tuổi trẻ, nhưng là những gì ám ảnh, nhiều khi sâu đậm, đối với tuổi già.

Mỗi kỷ vật có mỗi không gian, mỗi vị trí, mà sức nặng biến hóa theo thời gian. Có kỷ vật càng ở lâu càng nhẹ. Có kỷ vật nặng thêm theo tuổi đời.



Mỗi kỷ vật là một thứ gì đang chết chợt hồi sinh. Có hơi thở phập phồng trong hồi ức. Dù hiện diện hay thất lạc, sẽ tìm về gặp lại cố nhân.

 

Tất cả người Việt lưu vong, lưu xứ, đều mất rất nhiều kỷ vật của một đời. Không làm sao nhớ hết những gì đã mất. Lúc tuổi già kỷ vật như cánh chim, bất chợt bay ngang hiện tại, chạm vào đám mây trời, làm rơi những cơn mưa.

Thế hệ tiền phong lưu vong nay đã già, hầu hết đã trở lại quê nhà theo nắng phương đông. Những kẻ còn lại lạnh lùng quanh chung cư dưỡng lão. Kỷ vật quạnh hiu trong trí tưởng mập mờ. Thỉnh thoảng vụt ra, buồn vui hay đau đớn? Rồi sao? Dù chậm hay nhanh trang sử sẽ lật qua.

Kỷ vật để lại hóa thân thành phế thải. Lưu lạc bãi bờ, vào tay người Mễ, người da đen. Cũng tốt thôi, kỷ vật thành tặng vật. Ai biết bên trong còn đỏ máu nỗi niềm.

Khi kỷ vật không còn ai thương nhớ, cánh chim năm xưa không còn chạm trời mây. Tiếng hót cũ hoàn thành niềm đau im lặng.

 

Hôm qua, tôi tìm thấy một kỷ vật đã cư trú trong đời hơn 40 năm. Họ xuất hiện từ một tiệm bán đồ vặt bên đường, gặp gỡ chúng tôi trong thời lang thang cùng hoài bão.

Ngày tháng ấy, chúng tôi còn trẻ, nhưng đã thấy được tuổi già không lẻ loi. Mang họ về làm chứng theo thời gian. Tối tăm và thương khó. Suy nghĩ và phiền hà. Ý chí và vất vả. Hy vọng và hy sinh. Mồ hôi và mất ngủ. Rồi họ theo người thấy được bình minh.

Chúng tôi du hành dọn đi xa tỉnh. Cất họ vào thùng. 30 năm sau mới mở ra. Họ không thay đổi mà chúng tôi đã già.

 

Em biết không, khi anh tìm thấy họ. Im lìm chịu đựng qua ngày. Chịu đựng thăng trầm. Chịu nhiều khắc khoải. Nằm trong bóng đen. Những con mối hoài công gặm nhấm theo kiểu đời vô tâm muốn di họa cho người. Đàn gián bò qua đẻ lại mùi hôi theo thói quen người đổ vạ cho nhau. Bầy nhện quấn tơ quanh họ đã phục tùng, không khác gì trời đày cho số phận. Họ im lìm chịu đựng qua ngày.

Sức nặng sức khó đè lên, mặt người phụ nữ nứt nẻ. Lão ông úp mặt chỉ còn nửa vành môi. Không phải chỉ đời người mới chịu nhiều khốn khổ.

Anh đã thức suốt đêm, chà mài sơn dán, để họ bên nhau trở lại bình thường. Quên đi những tháng ngày mệt mỏi. Bắt đầu những niềm vui sót lại. Để họ làm kỷ vật mãi mãi cho chúng ta. Và để chúng ta làm kỷ vật cho họ lúc giã từ.

 

Ngu Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA) nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư về văn chương và các điều khác...
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Khoảng thời gian bắt đầu vào đại học, ngoài những lúc phải học những bài sinh hóa khô khan, tôi tìm đến văn chương tiếng Việt qua các tạp chí như Văn Học, Văn, và Hợp Lưu. Khác với Văn và Văn Học vốn mang không khí “cổ điển”, Hợp Lưu, với chủ biên sáng lập là nhà văn Khánh Trường, bung mở một cánh cửa đón nhiều cây bút mang phong cách táo bạo, thể nghiệm, trong cả hai lãnh vực thơ và văn, đến từ trong và ngoài Việt Nam. Gặp nhiều chống đối vào những năm đầu vì có sự góp mặt của những nhà văn trong nước, nhưng Khánh Trường vẫn bất chấp, tiếp tục xây dựng Hợp Lưu thành một diễn đàn văn chương mở rộng vì “các thể chế chính trị rồi sẽ qua đi, nhưng văn học nghệ thuật sẽ còn tồn tại dài lâu, nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là phải tìm cách bảo tồn, xiển dương những giá trị kia, không phân biệt phe phái, chính kiến.” (trả lời phỏng vấn của Đỗ Lê Anh Đào trên damau.org, ngày 22 tháng 9, 2006).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.