Hôm nay,  

“Thư Gửi Cha” Của Franz Kafka: Bức Thư Chứa Đầy Đau Đớn Chưa Từng Được Gửi

26/07/202400:00:00(Xem: 2350)

Thu goi cha
Có những đứa trẻ dùng ký ức thời thơ ấu để xoa dịu mọi tổn thương trong cuộc đời, cũng có những đứa trẻ phải dùng cả cuộc đời để chữa lành những tổn thương tuổi thơ. (Nguồn: pixabay.com)

Franz Kafka (3/7/1883 – 3/6/1924) là một trong những cây bút nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học với khả năng thể hiện những cảm xúc sâu sắc và các chủ đề nhân văn qua các tác phẩm của mình, phong cách sáng tác được Virginia Woolf gọi là “the humane art” (xin tạm dịch là “nghệ thuật vị nhân sinh”).


2 Kafka
 
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).
 
Thư Gửi Cha” được viết sau khi Franz Kafka từ hôn Felice Bauer, một phần nguyên nhân là do sự phản đối từ Hermann Kafka. Trong thư, người con trai 36 tuổi bộc phát những đau khổ và thất vọng đã tích tụ suốt hơn 30 năm về cách mà ba mình đã ngược đãi tinh thần (emotional abuse), đặt ra những tiêu chuẩn kép và chỉ trích không ngừng trong suốt thời thơ ấu.
 
Trong những thập niên tiếp theo, nhiều nghiên cứu về tâm lý học đã chứng minh rằng bức thư này không chỉ là bản cáo trạng đau đớn và nặng nề, mà còn cho thấy những trải nghiệm đầu đời với ba mẹ ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách và cách chúng ta kết nối với người khác khi lớn lên. Và đối với những người có trải nghiệm tương tự như Franz Kafka, dù là do ba mẹ hay người khác gây ra, tác phẩm “Thư Gửi Cha” vừa là cái gai đâm vào vết sẹo cũ, vừa là liều thuốc giảm đau vì họ nhận ra rằng thì ra cũng có người bị sứt sẹo giống mình.
 
Kafka viết:
Ba kính yêu,
Gần đầy ba có hỏi con, tại sao con lại cả quyết rằng con sợ ba. Như thường lệ, con không biết phải trả lời ba như thế nào cho phải, một phần cũng chính vì nỗi sợ đó, một phần để lý giải cho hết những lý do sẽ cần phải đi sâu vào quá nhiều chi tiết mà con không thể nhớ hết được khi nói chuyện trực tiếp. Và ngay cả bây giờ, khi con đang cố gắng viết thư để trả lời, thì chắc chắn sẽ vẫn còn thiếu sót nhiều lắm, bởi vì ngay cả khi viết ra, nỗi sợ ba cùng những hậu quả trong mối quan hệ của cha con mình vẫn ngăn tay cầm bút của con lại, và cũng vì quy mô của vấn đề vượt quá ký ức và trí lực của con.
 
Kafka đặt ra bối cảnh của sự bạo lực tinh thần từ cha mình và những gì ông hy vọng bức thư sẽ có thể mang đến cho cả hai:
 
Với ba thì mọi việc luôn hết sức đơn giản, chí ít điều trong những lần ba nói ra trước mặt con, và, trước mặt nhiều người khác, bất kể đó là ai. Đại loại, với ba thì chuyện chỉ thế này: Ba đã làm lụng vất vả cả đời, tất cả là vì các con, mà trước hết là vì con. Nhờ ba, con được ăn sung mặc sướng, được tự do thoải mái học cái gì con thích, không phải lo nghĩ tới cái ăn cái mặc, nói chung là không phải lo bất cứ chuyện gì. Ba không đòi con phải biết ơn, ba quá rành “ơn nghĩa sinh thành” trong mắt con cái là thế nào, nhưng ít nhất cái ba cần là một thái độ đền đáp, một biểu hiện cảm thông với sự vất vả của cha mẹ. Thế mà bấy lâu con luôn xa lánh ba, con ở lì trong phòng, với sách vở, với đám bạn khùng điên, với những suy nghĩ kỳ cục… Nói tóm lại, khi đánh giá về con, thì thực ra ba có quy kết cho con tội lỗi gì xấu xa hay độc ác gì đâu (ngoại trừ chuyện con muốn lấy vợ lần vừa rồi), ba chỉ nhận xét con là lạnh lùng, xa lánh, vô ơn. Và, hơn thế nữa, cách ba buộc tội con khiến con có cảm giác như thể rằng tất cả là lỗi ở con, rằng con chỉ cần thay đổi một chút là mọi việc sẽ tốt lên, còn ba thì có lỗi lầm gì chứ, có chăng là đã quá tốt với con.
 
Cách nhìn nhận vấn đề như thường lệ của ba, con chỉ coi là đúng khi chính con cũng tin rằng ba hoàn toàn không có lỗi gì trong sự xa cách giữa hai cha con mình. Nhưng ba ơi, con cũng đâu có lỗi gì. Và nếu con có thể làm cho ba hiểu ra điều đó, thì cho dù hai ta vẫn không thể có một cuộc đời mới – ba con ta đều đã quá già để làm điều đó – nhưng có thể chúng ta sẽ trở nên hòa hoãn hơn một chút; không thể làm dứt hẳn, nhưng cũng vơi được phần nào những nhiếc móc không ngừng nghỉ của ba.
 
Nhưng đến đây thì sự tương đồng kết thúc. Kafka cảm thấy mình hoàn toàn khác biệt so với cha, có những đặc điểm ở cha mà mình không có: “sức khỏe, nhiệt huyết, ăn to nói lớn, tài hùng biện, sự tự mãn, tham vọng thống trị, sự bền bỉ, bình tĩnh, khả năng nhìn thấu bản chất con người, và làm việc lớn.” Sự khác biệt về tính cách kết hợp với sự chênh lệch về quyền lực giữa cha mẹ và con cái là nỗi đau chung cho tất cả những ai có tuổi thơ tương tự: cảm giác bị áp đặt liên tục, từ nhẹ nhàng đến mạnh bạo; rằng cách nhìn nhận của cha mẹ luôn đúng họ là cha mẹ, họ có quyền; và rằng làm con cái thì phải nghe lời tuyệt đối, “con cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Kết quả là, đứa trẻ luôn ôm ấp mặc cảm tội lỗi, cảm thấy mình làm gì cũng sai.
 
Là một đứa trẻ sống với vòng lặp vô tận giữa việc oán hận cha mẹ rồi lại tự nhủ rằng cha mẹ làm vậy là vì thương mình, là vì áp lực công việc và cuộc sống, nếu mình ngoan hơn cha mẹ sẽ không làm như vậy, Kafka nhìn nhận những thiếu sót của cha mình với sự đau đớn nhưng cũng đầy cảm thông:
 
Cha con ta khác nhau hoàn toàn, và trong sự khác biệt đó, chúng ta trở nên nguy hiểm với nhau, đến nỗi là nếu tính toán về khả năng con, một đứa trẻ đang lớn, với ba, một người đàn ông hoàn toàn trưởng thành, đi bên nhau sẽ như thế nào, thì có lẽ người ta sẽ cho ra dự đoán đơn giản là ba sẽ đè con bẹp dí, không sót lại chút gì. Vâng, điều đó đã không xảy ra. Cuộc đời vốn chẳng dễ gì đoán định, nhưng lại có vô số chuyện bực mình kéo tới. Và khi nói đến việc này, con luôn phải nhắc đi nhắc lại với ba rằng, xin ba đừng quên, con chưa bao giờ mảy may nghĩ rằng ba có lỗi. Ba tác động tới con theo cách tự nhiên của mình, không thể làm khác hơn, nhưng xin ba hãy thôi nghĩ rằng con chủ tâm ác ý với ba chỉ vì con bị đè nén bởi tác động ấy.
 
Con là một đứa trẻ nhút nhát, nhưng hẳn là con cũng có chỗ nghịch ngợm như những đứa trẻ khác. Chắc hẳn mẹ cũng đã nuông chiều con, nhưng con không tin mình là đứa trẻ đặc biệt cứng đầu và lì lợm; con không tin một lời nói nhẹ nhàng, một cái nắm tay thân mật, một cái nhìn âu yếm lại không thể làm con vâng lời. Về bản chất, thực ra ba là người tốt bụng và dễ mềm lòng (điều này sẽ không mâu thuẫn với những điều tiếp theo sau đây, bởi con chỉ đang nói về cái hình ảnh mà ba tạo ra với con cái), nhưng không phải đứa trẻ nào cũng đủ kiên trì và can đảm để tìm kiếm cho đến lúc có thể hiểu ra lòng tốt ẩn sâu ấy. Ba chỉ có thể dùng cách hợp với con người ba để đối xử với một đứa trẻ, bằng cơ bắp, bằng quát nạt và cáu giận, và trong trường hợp này ba thậm chí còn coi đó là phương pháp rất tốt nữa, vì ba muốn rèn con trở thành một người mạnh mẽ và dũng cảm.
 
Kafka nhớ về một kỷ niệm buồn khi còn nhỏ. Vào một đêm nọ, cậu bé Kafka liên tục khóc đòi uống nước – “không hoàn toàn vì khát, mà có lẽ phần vì muốn kiếm chuyện với ba mẹ, phần vì muốn bày trò nghịch ngợm” – cho đến khi ba mình giận điên lên, lôi Franz ra khỏi giường, kéo cậu ra ban công và bỏ cậu ở đó trong chiếc áo ngủ phong phanh, rồi đóng sầm cửa lại. Ông viết:
 
Sau lần đó, con ngoan ngoãn vâng lời hơn, nhưng nội tâm con đã bị tổn thương. Vì lúc đó, con không thể nghĩ ra được bất kì mối liên quan hợp lý nào giữa việc với con là điều hiển nhiên, như khóc đòi uống nước, với nỗi sợ hãi tột độ khi bị bỏ lại ngoài ban công. Nhiều năm sau, con vẫn còn bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ dày vò con rằng người đàn ông vĩ đại, ba của con, người có quyền lực tối thượng đối với con, lại có thể không cần lý do mà thình lình lôi con ra khỏi giường và ném con ra bên ngoài, như thể con chẳng là cái thá gì đối với ba hết.
 
Trong những chất chứa tâm sự của Kafka, ông so sánh mình với sự ủng hộ mà nghệ sĩ Henri Matisse nhận được từ cha mẹ:
 
Những gì con cần là một chút động viên, một chút sẻ chia, một chút gợi mở cho con về con đường của mình, thay vào đó ba lại muốn bẻ con đi đường khác - cũng chỉ vì ba muốn tốt cho con, tất nhiên… Ngày đó, trong mọi tình huống và mọi khía cạnh của cuộc sống, những gì con cần chỉ là một chút khích lệ và động viên.
 
Kafka chỉ trích người cha Hermann vì đã áp đặt quan điểm của mình một cách độc tài lên con cái. Mặc dù cụ Hermann xuất thân từ một gia đình trung lưu, nhưng lại xây dựng hình ảnh bản thân là người vượt khó thành công. Cụ bị tự mãn quá độ, tin rằng ý kiến của mình là đúng tuyệt đối. Kafka viết:
 
Ba đã tự gầy dựng mọi thứ từ hai bàn tay trắng, vậy nên ba có niềm tin vô hạn vào quan điểm của mình. Hồi nhỏ, điều này đã không làm con hoa mắt chóng mặt như khi đã là một thiếu niên sắp trưởng thành. Tựa lưng vào chiếc ghế bành, ba cai trị cả thế giới. Quan điểm của ba là đúng, còn lại tất cả đều là khùng điên, chập mạch, rác rưởi, không bình thường. Mà sự tự tin của ba lớn đến mức ba không thấy mình cần phải nhất quán, cần trước sau như một, và ba không bao giờ chịu nhận mình sai. Đôi khi ba không có quan điểm gì về một vấn đề nào đó, nhưng vì thế ba cho rằng tất cả những quan điểm của người khác xoay quanh vấn đề đó đều là sai, không có ngoại lệ. Chẳng hạn, ba có thể chửi dân Séc, chửi dân Đức, rồi quay ra chửi dân Do Thái, và hơn thế nữa, không chửi về một cái gì cụ thể cả, mà chửi chung, chửi tất. Rốt cuộc chẳng còn ai đúng, ngoài ba. Vậy là với con, ba trở thành một bí ẩn, mang những nét của tất cả bạo chúa với lý lẽ ‘lời ta nói ra chính là chân lý’.
 
Một lần nữa, Kafka mô tả cách mà quan điểm của cha mình về thế giới đã khiến đời ông tràn ngập những nghi ngờ và mơ hồ:
 
Con luôn phải gánh chịu áp lực nặng nề của ba trong mọi suy nghĩ, đặc biệt là trong những suy nghĩ không giống của ba. Tất cả những suy nghĩ khác với quan điểm của ba đều bị bóp nghẹt ngay từ đầu bởi sự phán xét, miệt thị. Dưới áp lực đó, con chẳng thể giữ và phát triển hoàn chỉnh cho hết những suy nghĩ của mình.
 
Chỉ cần con cảm thấy thích một cái gì đó, chạy về nhà, hăm hở nói ra, thì câu trả lời luôn là một tiếng thở dài mỉa mai, một cái lắc đầu, một cái gõ tay lên mặt bàn… Dĩ nhiên, con không thể đòi hỏi ba lúc nào cũng phải hào hứng với những trò trẻ con vụn vặt, trong khi ba đã phải tối mặt tối mũi làm lụng lo toan. Nhưng vấn đề không phải là chuyện đó. Vấn đề đúng ra là, do tính cách khác biệt, ba gần như luôn luôn và triệt để phải làm cho đứa con trai mình thất vọng, và còn hơn thế, do sự đối nghịch này được gia tăng không ngừng bởi sự lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác, cuối cùng thì đối nghịch trở thành thói quen, ngay cả những khi cha con ta có cùng quan điểm với nhau; cuối cùng thì, những nỗi thất vọng của con không còn là những nỗi thất vọng thông thường nữa, mà chúng bén rễ cắm sâu vào tận tim gan con, bởi chúng liên quan đến ba – thước đo của mọi sự trên đời. Con không thể giữ được lòng cam đảm, sự quyết đoán, sự tự tin và niềm hứng khởi trong việc gì khi bị ba phản đối, hoặc chỉ cần nghĩ rằng ba sẽ phản đối. Mà con nghĩ, có lẽ hầu hết những việc con làm ba đều phản đối.
 
Kafka viết lá thư gửi cha chỉ năm năm sau khi Freud giới thiệu khái niệm về tính ái kỷ (narcissism) và nửa thế kỷ trước khi khái niệm về Xáo Trộn Nhân Cách Ái Kỷ (Narcissistic Personality Disorder) được chính thức phân loại trong bảng “Phân loại tiêu chuẩn và thống kê các chứng trở ngại thần kinh” (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, DSM). Kafka cũng thừa nhận rằng ông đôi khi cũng làm tổn thương cha bằng lời nói, nhưng ông luôn biết và cảm thấy hối hận về điều đó, trong khi chẳng thể hiểu nỗi tại sao cha ông lại không bao giờ hối hận:
 
Con chẳng tài nào hiểu nổi, tại sao ba có thể hoàn toàn vô cảm đến thế, vô cảm về việc những lời ba nói làm con đau đớn và nhục nhã thế nào, cứ như ba không biết gì về quyền uy của mình. Vâng, đúng là con cũng hay làm ba đau đớn với những lời nói của mình, nhưng con luôn nhận ra ngay, và cũng cảm thấy đau đớn, nhưng con không thể làm chủ được, không thể ngăn lời nói lại, con đã luôn ân hận, ân hận ngay khi nói. Nhưng ba thì cứ vô tư mà tuôn ra, chẳng thấy đau buồn dùm ai cả. Ba không đau đớn khi đang nói, sau đó cũng không. Đứng trước ba, người ta chỉ có nước buông súng đầu hàng.
 
Bất kỳ ai đã từng sống chung với một người có nhân cách ái kỷ thường sẽ thấy những người này hay áp dụng tiêu chuẩn kép, nghĩa là họ đặt ra quy tắc nhưng không thực sự tuân thủ. Kafka minh họa điều này bằng một câu chuyện trên bàn ăn:
 
Điều quan trọng khi cắt bánh là phải cắt thẳng thớm, nhưng ba cưa bánh bằng con dao ăn dính đầy nước sốt thì chẳng sao. Ăn uống thì phải cẩn thận, không để vụn bánh rơi xuống đất, nhưng chỗ ba ngồi luôn có nhiều vụn bánh nhất.
 
Hậu quả đau lòng nhất của những tiêu chuẩn kép này là đứa trẻ trở nên hoàn toàn mất phương hướng vì các tiêu chuẩn này thay đổi liên tục tùy thuộc vào người thực hiện hành động, khiến trẻ không thể hiểu rõ ràng cái gì là đúng, cái gì là sai. Thay vì giúp trẻ hiểu và xác nhận trải nghiệm thực tế của mình, các bậc phụ huynh ôm tiêu chuẩn kép sẽ làm cho trẻ cảm thấy mình luôn là người sai. Những đứa trẻ sống trong môi trường như vậy dễ dàng lớn lên với niềm tin sâu sắc rằng bất kỳ cách hiểu nào của mình về một vấn đề nào đó, đặc biệt khi thực tế không được rõ ràng, đều là sai lầm hoặc không đúng đắn.
 
Sống trong mông lung, mơ hồ và luôn nghi ngờ bản thân, Kafka ngày càng lo lắng về sức khỏe của mình:
 
Vì không có điều gì con có thể chắc chắn trong cuộc đời mình, con cần liên tục nhận được sự xác nhận về sự tồn tại của mình, mà cứ cảm thấy chẳng có gì là của riêng mình – chỉ duy nhất một thứ con có thể chắc chắn là thuộc về mình, đó là cơ thể của riêng con.
 
Vì vậy, ông bắt đầu tập trung vào cơ thể và sức khỏe của mình, dẫn đến những lo lắng và ám ảnh về sức khỏe, góp phần vào sự phát triển của bệnh lao – căn bệnh đã cướp đi mạng sống của ông. Kafka phải khẩn cầu rằng:
 
Xin ba hiểu cho, những chi tiết nhỏ nhặt ấy tự nó chẳng có gì đáng nói, nó chỉ trở nên nặng nề khi mà ba, người quyền uy vô cùng đối với con, lại không làm theo những chuẩn mực do chính mình đặt ra. Vậy là đối với con, thế giới bị chia làm ba phần: một là nơi con sống, con – kẻ nô lệ, trong thế giới của những luật lệ chỉ được đặt ra với mình, những luật lệ mà con không bao giờ có thể đáp ứng được thực sự, và cũng không hiểu tại sao; thế giới thứ hai, cách xa vô tận thế giới của con, là thế giới nơi ba sống, nơi ba cai trị, nơi ba phát ra mệnh lệnh và nổi giận vì mệnh lệnh không được chấp hành; và thứ ba là thế giới của những người khác, những người sống hạnh phúc, không bị ràng buộc bởi mệnh lệnh hay chấp hành. Con đã luôn sống trong nhục nhã. Hoặc con tuân theo những mệnh lệnh của ba, đó là nhục nhã, bởi những mệnh lệnh đó chỉ áp dụng cho con. Hoặc con cãi lại, đó cũng là một nỗi nhục nhã khác, bởi sao con lại được phép cãi lại ba cơ chứ? Hoặc con không thể tuân theo, vì chẳng hạn như con không có được sức lực như ba, không có được khả năng ăn uống của ba, không có được sự khéo léo của ba, trong khi ba lại đòi hỏi điều đó ở con như một lẽ đương nhiên. Đó là sự nhục nhã lớn nhất.
 
Kafka cho thấy cách tính khí nóng nảy của người cha đã nghiền nát hy vọng của đứa con về việc được hiểu và nói chuyện với nhau một cách bình tĩnh, văn minh:
 
“[Giọng gằn giận dữ và những lời chỉ trích, miệt thị cùng cực của ba] đã không còn làm con run bần bật như hồi bé nữa, bởi vì cái cảm giác tội lỗi trẻ thơ giờ đã bị thay thế phần nào bởi cái viễn cảnh vô phương cứu chữa của hai cha con mình.
 
Việc không thể nói năng nhẹ nhàng, bình tĩnh với nhau còn sinh ra một hệ quả rất tự nhiên nữa: Con đánh mất khả năng nói. Có lẽ dù gì thì con cũng không thể trở thành một đại diễn giả, nhưng hẳn con cũng có thể nói năng trôi chảy như người bình thường chứ. Nhưng ngay từ nhỏ ba đã cấm con nói. Tiếng quát “Cấm cãi!” của ba kèm theo nắm đấm giơ lên đã theo con đến tận bây giờ. Ba – luôn là một diễn giả xuất sắc mỗi khi gặp chuyện ba thích – đã biến con thành một đứa lắp bắp, ăn nói ngọng nghịu, mà như thế với ba vẫn còn là quá nhiều, đến nỗi rốt cuộc con im lặng luôn, thoạt tiên chỉ vì chống đối, nhưng rồi con im hẳn vì đứng trước ba, con không thể suy nghĩ hay nói năng được bất cứ điều gì. Và bởi vì ba là người quan trọng nhất nuôi dạy con, nên ảnh hưởng của ba đã theo con suốt cả cuộc đời.
 
Phương pháp giáo dục bằng lời vô cùng hiệu quả của ba, hoặc ít nhất là chưa bao giờ thất bại khi áp dụng lên con, là: chửi rủa, dọa nạt, mỉa mai, cười gằn, và than vãn (kỳ lạ ghê).
 
Những người bạo ngược ái kỷ quá độ thường thể hiện sự tự tin thái quá, lại hay tỏ vẻ mình là nạn nhân, điều này tạo nên một hình ảnh phức tạp và khó đối phó. Cha của Kafka không trực tiếp lăng mạ hay đánh đập con, mà thay vào đó, cụ thường xuyên chửi rủa và lăng mạ những người xung quanh, tạo ra một môi trường độc hại khiến ông kiệt quệ tinh thần:
 
Con không nhớ đã có lần nào ba chửi thẳng con bằng những câu chửi trực tiếp chưa. Mà ba cũng đâu cần làm thế, bởi ba có quá nhiều cách khác, ở nhà, và đặc biệt ở cửa hàng, những tràng chửi rủa như thác trút lên đầu người khác xung quanh làm cho con khi bé nhiều lúc thấy tối tăm mặt mũi và không có lý do gì để không tin rằng, chúng cũng dành cho con, bởi những người bị ba chửi rủa chắc chắn không tồi tệ hơn con, và họ thì không thể làm ba khó chịu hơn con. Và đây lại là sự vô tội và sự không thể làm tổn thương đến khó hiểu của ba. Ba thích thì ba chửi thôi, không hề lăn tăn gì đến những hậu quả mình gây ra, vâng, ba trách móc người khác khi họ mở miệng chửi, và ba cũng cấm người khác chửi.
 
Với Kafka, những lời dọa nạt liên tục của cha còn đau đớn hơn cả những hình phạt mà ông hay hăm he nhưng ít khi làm. “Những lời đe dọa này làm tê liệt cảm xúc của người ta,” và tạo cảm giác rằng “khi ba không thực hiện hình phạt, đó là lòng từ bi của ba.
 
 “Có cảm giác như con đã sống sót nhờ ơn huệ của ba và phải mang mãi cái ơn này như một thứ của bố thí không đáng.
 
Cũng đúng là ba chưa một lần thực sự đánh con. Nhưng tiếng ba thét, mặt ba đỏ tía lên, ba hối hả tháo thắt lưng da, rồi ba luôn bày sẵn nó trên thành ghế, khiến con gần như hết chịu nổi. Như thể chuẩn bị mang tội nhân ra xử tử. Thà là bị treo cổ thật đi, chết rồi thì mọi chuyện sẽ chấm dứt. Đằng này người ta phải chứng kiến tất cả các bước chuẩn bị cho việc treo cổ, và chỉ đến khi chiếc thòng lọng rơi xuống trước mặt, người ta mới biết rằng mình được ân xá, thế là người ta có thể sẽ phải đau đớn cả đời vì ký ức đó. Tất cả những lần mà theo ý ba, con xứng đáng bị ăn đòn, nhưng rốt cuộc lại thoát được trong phút chót nhờ lòng khoan dung của ba, chỉ làm tích tụ ngày càng dày hơn cảm giác tội lỗi trong con. Đâu đâu con cũng thấy mình có tội trước ba.
 
Với những đứa trẻ lớn lên trong môi trường bị ngược đãi tinh thần, những khoảnh khắc hiếm hoi của sự quan tâm và tình cảm cơ bản từ cha mẹ được coi là vô cùng quý giá, mặc dù đó chỉ là những hành động nhỏ bé và hiếm hoi. Kafka kể lại những khoảnh khắc hiếm hoi đó:
 
May mắn là vẫn còn những ngoại lệ, nhất là những khi ba âm thầm chịu khổ, kiên cường đối mặt và gắng sức vượt qua mọi thử thách bằng tình thương và lòng nhân từ. Đó chỉ là những ngoại lệ hy hữu thôi, nhưng nó thật tuyệt vời. Như những trưa hè nóng nực năm xưa, sau bữa cơm, ba đặt lưng nằm nghỉ, đầu tựa lên tay, và con đứng nhìn ba yên giấc. Hay như những ngày Chủ nhật dù mệt nhoài nhưng ba vẫn đến đón chúng con trong tươi rói nắng hè. Hay lần mẹ ốm nặng, ba run run vịn chặt vào giá sách để khỏi bật khóc. Hay như lần con bị bệnh vừa qua, ba lặng lẽ đến với con trong phòng em Ottla và dừng lại ngoài cửa, chỉ ghé đầu nhìn vào và khẽ giơ tay ra hiệu vì muốn giữ yên tĩnh cho con. Những lần đó, ba ơi, người ta có thể gục đầu xuống giường mà khóc vì hạnh phúc, và khi viết tới đây, hai mắt con lại nhòe đi.
 
Sau đó, Kafka chuyển sang một khía cạnh phức tạp khác của những gia đình như vậy –  người cha, mẹ im lặng cũng giống như đồng phạm, khiến đứa trẻ không nhận được sự xác nhận rằng những cảm xúc và đau khổ của mình là hợp lý và chính đáng, khiến chúng cảm thấy bị cô lập và mất phương hướng. Kafka viết:
 
Đúng là mẹ đã luôn hết lòng hết dạ mà đối tốt với con. Nhưng đối với con thì tất cả điều đó đều nằm trong mối quan hệ với ba, một quan hệ không tốt đẹp. Trong cuộc săn đuổi này, mẹ đã vô tình đóng vai trò chất xúc tác. Nếu phương pháp giáo dục của ba, trong trường hợp thật nào đó, khiến con vì phản kháng, chống đối hay thậm chí căm ghét ba đến mức dám tách ra sống độc lập, thì mẹ lại đứng ra để cân bằng lại, bằng lòng tốt, bằng trò chuyện phải trái, bằng cầu xin... (trong tuổi thơ mông lung của con, mẹ là tượng đài của lý trí), và thế là con lại quay về trong vòng ảnh hưởng của ba, mà vốn sẽ tốt đẹp hơn cho cả hai cha con ta nếu con thoát ra được.
 
Nếu con muốn chạy trốn khỏi ba ư? Vậy thì con cũng phải chạy trốn khỏi cả gia đình ta, ngay cả mẹ nữa. Con luôn có thể được mẹ che chở, nhưng chỉ che chở trong mối quan hệ với ba. Mẹ quá yêu ba và trung thành với ba, nên mẹ không thể đóng vai trò hậu phương tinh thần vững chắc trong cuộc đấu tranh của chúng con.
 
Trước khi các nhà tâm lý học chứng minh cách rằng cách chúng ta gắn kết với cha mẹ từ khi còn nhỏ sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta kết nối với người khác khi trưởng thành, Kafka đã cảm nhận được sự ngược đãi tinh thần từ cha gây hại cho các mối quan hệ của mình trong cuộc sống sau này:
 
Và dưới cái bóng của ba, các mối quan hệ của con với những người khác thậm chí còn bị tổn thương lớn hơn. Ba đã hoàn toàn nhầm lẫn khi cho rằng, con làm tất cả cho người ngoài vì tình yêu và lòng trung thành, trong khi, vì lạnh nhạt và phản bội, con chẳng làm gì cho gia đình mình. Con xin nhắc lại lần thứ mười: Ngay cả khi không chịu ảnh hưởng gì của ba, có thể con vẫn sẽ trở thành người nhút nhát sợ sệt, nhưng từ con người đó tới con người của con ngày hôm nay… là cả một quãng đường dài tăm tối.
 
Nhưng đối với Kafka, biểu hiện đáng thất vọng nhất từ thói chê bai trường kỳ của ba là đối với việc viết lách của ông:
 
“[Trong việc viết lách của con], quả thật con đã tách ra độc lập được với ba một đoạn, cho dù sự độc lập này cũng chỉ gợi liên tưởng đến một con sâu, con sâu bị một bàn chân dẫm chặt ở một đầu, còn đầu kia cố gắng ngoặt ngoẹo kéo lê thân mình đi. Ở đầu bên này, con được yên ổn phần nào. Con được hít thở một chút. Tất nhiên ba đã lập tức có ác cảm với việc viết lách của con, nhưng trong trường hợp ngoại lệ này, con lại sẵn sàng đón nhận. Sự kiêu ngạo của con, tham vọng của con đã bị tổn thương trước câu nói của ba, câu nói quá quen thuộc mỗi khi con mang về những cuốn sách mới của mình: “Để lên bàn đi!” (thường thì ba đang chơi bài mỗi khi con mang sách đến)… Con viết đều là về ba. Con than vãn trên những dòng chữ, vì con không thể than vãn trên ngực ba. Viết là một cuộc chia ly với ba, cuộc chia ly mà con cứ cố ý kéo dài ra mãi, và tuy rằng đó là cuộc chia ly do ba ép buộc, nhưng nó đi theo hướng nào lại do con quyết định.
 
Ông bổ sung thêm:
 
Trong việc viết lách, và tất cả những việc khác liên quan đến viết lách, con đã có một số nỗ lực tự lập, thử chạy trốn, với chút ít thành công nhỏ nhặt; nhưng chỉ vậy thôi, đừng hòng mong cầu gì hơn, có nhiều bằng chứng khiến con tin như vậy. Mặc dù vậy, viết là bổn phận, hay còn hơn thế, tất cả ý nghĩa của cuộc đời con nằm ở việc canh giữ ngòi bút của mình, không để cho mối nguy nào mà con không thể chống đỡ bén mảng tới gần.
 
Ngay từ đầu, cha của Kafka đã không ủng hộ, không đánh giá cao các sở thích và sự sáng tạo của ông, hình thành cảm giác tự ti và nghi ngờ bản thân trong Kafka, điều mà sau này được gọi là Hội chứng Kẻ Mạo Danh (Impostor Syndrome). Kafka kể lại một ảo tưởng đầy khổ sở của mình trong thời gian học trung học:
 
Trong tưởng tượng của mình, con thường thấy những cuộc họp khủng khiếp của các thầy cô giáo. Con thấy họ cùng nhau kéo đến khi con đậu kì thi lớp Một, họ kéo đến khi con đậu kì thi lớp Hai, rồi kì thi lớp Ba... Họ kéo đến để điều tra trường hợp bất công có một không hai này. Họ điều tra xem tại sao con, kẻ vô dụng nhất, và chắc chắn là dốt nát nhất, lại có thể bò lên được lớp học này, và, bởi vì tất cả ánh mắt đều dồn vào con, nên tất nhiên họ sẽ lập tức tóm được thủ phạm, và tất cả hò reo vì sự công bằng đã được giải thoát khỏi cơn ác mộng này. Phải sống với những hình dung như thế đối với một đứa trẻ thật không dễ dàng.
 
Trong bức thư, Kafka phản ánh về những chỉ trích của cha mình, bao gồm cả việc tan vỡ hôn ước. Ông cảnh báo:
 
Cuối cùng, người ta không nhất thiết phải lao thẳng về tâm mặt trời, mà chỉ muốn tìm được một chỗ nhỏ bé, sạch sẽ trên mặt đất, nơi mà ánh dương thỉnh thoảng rọi xuống để họ có thể được sưởi ấm phần nào.
 
Kafka kết thư bằng một suy ngẫm đầy chất thơ và đau lòng về mục đích cuối cùng của bức thư – để mở ra một cơ hội cho việc hàn gắn mối quan hệ của hai cha con, dù rằng những khác biệt giữa cả hai là quá lớn:
 
Tất nhiên, những điều xảy ra trên thực tế không thể trùng khớp hoàn toàn với những gì con viết, cuộc đời vốn đâu phải một trò chơi ghép hình. Nhưng theo con, việc đối chiếu những gì con đã trình bày với thực tế, một việc mà con không thể và cũng không muốn làm cho ra lẽ để làm gì, vẫn có thể đưa chúng ta đến gần hơn với sự thật, giúp hai cha con ta được khuây khỏa phần nào, và để chúng ta có thể sống và chết nhẹ nhàng hơn.
 
Mặc dù bản dịch cũ của Kaiser/Wilkins của bức thư đã rất xuất sắc, chỉ là riêng trong đoạn cuối này bản dịch gần đây của Howard Colyer thể hiện được nhiều tinh túy hơn một chút:
 
Trong cuộc sống, mọi thứ không thể đơn giản, gọn gàng và rõ ràng như những gì con đã viết. Cuộc đời nào có phải trò xếp hình để đo lòng kiên nhẫn của chúng ta. Nhưng đã chấp nhận viết ra những dòng này, dù có thể không hoàn hảo hoặc chính xác từng chi tiết, con vẫn tin rằng lá thư này chứa đựng một phần sự thật có thể giúp cả hai cha con ta tìm ra lối thoát, để khi đối mặt với sự sống hay cái chết, chúng ta có thể nhẹ lòng hơn.
 
Dù rằng “Thư Gửi Cha” của Kafka là một đoạn tự truyện đầy bi kịch về tuổi thơ bị ngược đãi tinh thần nặng nề, nhưng bi kịch lớn nhất là bức thư chưa bao giờ đến được tay người cha. Kafka đã đưa bức thư cho mẹ mình, Julie, để bà chuyển cho cha ông, nhưng bà không chuyển mà trả lại cho con trai. Có thể là vì Julie đã biết “kịch bản cũ” rồi cũng sẽ xảy ra và muốn làm cách tốt nhất mà bà có thể làm để tránh cho Kafka khỏi rơi vào nỗi thất vọng tột cùng.
 
Để giảm bớt cảm xúc nặng nề sau khi đọc “Thư Gửi Cha,” quý vị có thể tìm đến các tác phẩm nhẹ nhàng hơn của Mark Twain và Rachel Carson về lòng nhân ái và việc nuôi dạy con cái. Mark Twain viết về những bài học về lòng nhân ái từ mẹ ông, trong khi Rachel Carson nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và sự quan tâm trong việc làm cha mẹ.
 
Sớm Mai biên dịch 
Nguồn: “Kafka’s Remarkable Letter to His Abusive and Narcissistic Father” được đăng trên trang Themarginalian.org.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trần Hoài Thư vừa ra đi lúc 6 giờ 35 sáng nay [giờ miền Đông Hoa Kỳ], ngày Thứ Hai 27.05.2024 tại bệnh viện JFK, New Jersey, đúng một tháng sau ngày Chị Ngọc Yến mất [27.04.2024]. Đây là một tin buồn và cũng là một mất mát lớn trong làng Văn học Việt Nam hải ngoại. Sau đây là bài viết của Trần Yên Hòa tưởng nhớ về Ông.
Đọc 9 Khuôn Mặt 9 Phong Khí Văn Chương một lần, nhiều lần, vẫn thấy tràn lấp trong mọi suy tưởng, phê bình, phân tích, là niềm hứng khởi hân hoan của một người viết, vừa là nhà thơ, vừa phê bình văn học, và trên hết là một người đọc tha thiết, mê say, bằng tất cả trái tim và khối óc...
Tin từ Trần Quí Thoại, con trai Nhà văn Trần Hoài Thư báo cho biết Ba của Thoại đã mất lúc 6 giờ 35 sáng nay [giờ miền Đông Hoa Kỳ], Thứ Hai 27.05.2024 tại bệnh viện JFK, New Jersey, đúng một tháng sau ngày Chị Ngọc Yến mất [27.04.2024]. Đây là một tin buồn và cũng là một mất mát lớn lao cho nền Văn học Việt Nam. Xin phân ưu cùng BS Trần Quí Thoại và Hai Anh Trần Quí Phiệt, Trần Quí Trâm trước tin ra đi của Ba và người em Trần Hoài Thư.
Đa số người viết thể loại này không trải qua quá trình nghiên cứu văn học phê bình hoặc không tu tập qua hệ thống hàn lâm. Kết quả thường cho thấy là những bài viết theo sở thích cảm tính, kinh nghiệm chung, mô phỏng hoặc bắt chước những bài viết nổi bật đã có sẵn. Trong khuynh hướng đó, ít thấy khả năng sáng tạo trong các bài viết này. Sáng tạo là một trọng điểm làm cho bài viết phê bình có giá trị.Một nhận xét tổng quát như vậy sẽ bỏ sót vài khía cạnh quan trọng, đó là một số ít nhà văn sinh nhi chi tri, có khả năng thông diễn, họ có thể nhìn thấu suốt một tác phẩm hoặc tác giả để đưa ra nhận định và phê phán tài hoa, hợp lý, đáng thán phục. Những vị này mà tôi được biết, họ thuộc vào tiểu thiểu số, mỗi thời đại chỉ có vài người, họ rất thận trọng về việc viết bài phê bình vì không ai lường được sự ảnh hưởng của nó như thế nào, nhất là khả năng ám ảnh của nó đối với tác giả cũng như độc giả.
Santa Ana – Hội Văn Học và Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) hân hạnh giới thiệu Hội Chợ Sách “Viet Book Fest” lần thứ 3, diễn ra vào Chủ Nhật, ngày 5 tháng 5, từ 10:00 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tại Viện Bảo Tàng Bowers, số 2002 North Main Street, thành phố Santa Ana...
Buổi ra mắt sách của nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc hôm Chủ Nhật 21/4/2024 tại Nhà sách Tự Lực cũng là một cơ duyên để nhiều bạn văn gặp nhau, trong một thời đại thống trị của văn học Internet, khi không còn bao nhiêu sách giấy được xuất bản, và cũng không còn bao nhiêu buổi ra mắt sách giấy ngay giữa Quận Cam, California.
Nữ sĩ Linh Bảo kỷ niệm sinh nhật 98 tuổi hôm chủ nhật April 14, 2024 và vừa mất sáng sớm hôm qua, April 22, 2024 tại tư gia ở Westminster, nam Cali...
Chiều thứ Bảy, 13/4/2024, tại hội trường Nhật báo Người Việt, Quận Cam, đã có một sự kiện văn học đáng chú ý. Đó là buổi Ra Mắt Sách (RMS) của nhà văn Đặng Thơ Thơ với cuốn tiểu thuyết mới nhất của chị, “Ai”...
Nhà văn, nhà thơ Viên Linh (1938-2024) vừa ra đi. Ông tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20/1/1938 tại Hà Nam, từ trần ngày 28/3/2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết này để đưa tiễn nhà thơ Viên Linh, người mà tôi hân hạnh có nhiều năm thân cận tại Quận Cam, California. Tôi thuộc thế hệ sau nhà thơ Viên Linh rất xa, nên những gì biết và tương tác với nhà thơ chỉ là một góc nhìn. Tôi hân hạnh được gọi nhà thơ Viên Linh là "anh" theo thói quen giao tiếp trong giới văn nghệ, cũng như tôi đã gọi anh Mai Thảo, anh Nhật Tiến, anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ, chị Nhã Ca... trong những buổi gặp nhau ở Quận Cam. Thật sự họ cách biệt tôi rất nhiều, vì họ đã hiện ra như các ngọn núi huyền thoại của văn học Miền Nam trước 1975. Và tôi đã có cơ duyên làm người bạn trẻ của họ. Và cũng là người viết các bản tin về họ, vì tôi phụ trách mục tin tức trên tờ Việt Báo. Trong các bài viết hay bản tin trước giờ về Viên Linh, đôi khi tôi gọi Viên Linh là anh, đôi khi gọi là ông.
Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy.” Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.