Hôm nay,  

Nam Sơn Trần Văn Chi và sách: Haven of Love and Truth

22/12/202416:34:00(Xem: 4717)

blankHình từ phải: Nhà văn Nam Sơn Trần Văn Chi cầm ấn bản tiềng Anh, và nhà thơ Lê Giang Trần, người dàn trang cho sách này.(Photo: PTH)


Nam Sơn Trần Văn Chi và sách:
Haven of Love and Truth
 
Cuốn "Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư" được một Sư cô dịch sang tiếng Anh
 

Phan Tấn Hải
 

Các bạn cao niên hẳn còn nhớ tới cuốn sách học từ thời thơ ấu, "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" mà nhiều thế hệ cao niên từng học thời tiểu học ở Việt Nam?
 

Nhà văn Nam Sơn Trần Văn Chi trong bài viết năm 2004 nhan đề "Sau 50 Năm Đọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư" ghi nhận rằng:
 

"Những ai, trong chúng ta, ở độ tuổi 60 trở về trước, hẳn còn nhớ bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ( QVGKT) ; Có thể đã từng đọc qua hoặc đã nghe đâu đó kể, hoặc đọc qua một vài đoạn, vài bài trong đó. Đã nửa thế kỷ qua đủ để chúng ta quên nó. Và đủ để chúng ta nhớ nó; nhưng dù thế nào nay đọc lại cũng gây cho chúng ta ít nhiều hoài niệm về thời thơ ấu. Thời mà ngày hai buổi cấp sách đến trường, thời ăn chưa no, lo chưa tới của tuổi học trò.
Trong buổi sơ khai của chữ quốc ngữ (không phải chữ Hán, chữ Tây), bộ QVGKT là bộ sách giáo khoa, do nhà nước Pháp, mà trực tiếp là Nha Học Chánh Đông Pháp, giao cho quí ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận cùng biên soạn. Bộ QVGKT gồm có 3 quyển:
- Quyển dành cho lớp Đồâng Ấu ( Cours Enfantin) là quyển dạy về luân lý (Morale) qua các bài tập đọc và tập viết.
- Quyển dành cho lớp Dự Bị ( Cours Préparatoire)
- Và quyển dành cho lớp Sơ Đẳng ( Cours Elementaire).
Hai quyển Dự Bị và Sơ Đẳng gồm các bài tập đọc (lecture), chứa đựng nội dung bao gồm : Sử ký, Địa Dư, Cách trí, Vạn vật, Vệ Sinh, Đạo Đức, Gia Đình...
Chưa có dịp tìm một cách chính xác xem coi bộ QVGKT xuất bản đầu tiên năm nào, nhưng theo bản mà chúng tôi đọc, xuất bản năm 1939 thì đã in lần thứ mười ba. Như vậy án chừng sách xuất bản đầu tiên vào những năm đầu thế kỷ 20.
QVGKT là bộ sách giáo khoa đầu tiên của Việt Nam, dành cho học trò cấp Sơ Đẳng ( Cấp I, Tiểu học ngày nay) từ Bắc vào Nam. Tuy là sách do thực dân Pháp chủ trương nhưng thực tình mà nói nó có giá trị giáo dục, Sư Phạm rất cao, mà tới nay chưa có bộ giáo khoa Việt Nam nào bì kịp ; dù trong đó có dấu ấn chính trị thực dân ! Mỗi bài trong sách đều có hình vẽ, theo lối tranh khắc trên gỗ, nét vẽ chân phương phản ảnh nội dung chứa đựng trong bài gây ấn tượng mạnh đối với đọc giả tí hon và người lớn nữa.
Các tác giả viết rất dễ hiểu, đơn giản câu văn ngắn, dùng chữ gợi hình, gần gũi với tuổi thơ Việt Nam.
Cuối bài, tác giả tóm lại ý nghĩa bằng một câu "toát yếu", mang tánh giáo dục về đạo đức, luân lý, như là mặc nhiên, không cần giải thích." (ngưng trích)
   

Và rồi học giả Trần Văn Chi viết một loạt bài ghi nhận, phân tích về sách QVGKT. Các bài đó đã được dịch sang tiếng Anh để những thế hệ sau khi nghiên cứu về cội nguồn sẽ biết rằng thế hệ cha mẹ của họ đã học trong bầu không khí nhân văn như thế nào.
 

Bản tiếng Anh nhan đề là "Haven of Love and Truth" chuyển ngữ bởi Sư cô Liên Nha, bút hiệu là Huyền Trí. Sách này đã lưu hành trên mạng Amazon, và có thể mua tại


 
Nhà sách Tự Lực
14318 Brookhurst St, Garden Grove, CA 92843 -
Phone: 888- 204-7749

 
Sách dày 346 trang. Nhiều hình ảnh hiếm quý của một thời rất xa xưa. Độc giả có những câu hỏi quan tâm có thể liên lạc trực tiếp với tác giả: [email protected] .
 

Cũng nên nhắc rằng, ấn bản tiếng Việt nhan đề đã được nhà văn Nam Sơn Trần Văn Chi lưu hành và ra mắt hồi tháng 8/2014.

Lúc đó, nhà văn Nam Sơn Trần Văn Chi thực hiện buổi ra mắt 3 tác phẩm văn học miền Nam
1. Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư
2. Triều Nguyễn và Công Cuộc Mở Đất Phương Nam
2. Hương Vị Ngày Xưa và Món Ngon Miền Nam
vào ngày 4 tháng 8/2024 tại Nhà Sách Tự Lực.

 
Nhà văn Trần Văn Chi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn ban Sử-Địa khóa 1964-1968, là tổng thư ký Hội Liên Trường Petrus Ký, Nguyễn Đình Chiểu, và Phan Thanh Giản trước 1975. Ông là giảng viên, tổng thư ký Đại Học Hòa Hảo trước 1975. Hiện định cư tại Hoa Kỳ với bút hiệu Nam Sơn Trần Văn Chi, chuyên biên khảo về văn hóa xã hội, phong tục Việt Nam, văn phong tiêu biểu lối văn “bác học miền Nam,” với khoảng 10 đầu sách đã xuất bản.
 

Theo Giáo sư Nguyễn Trung Quân trong một bài viết năm 2017: "Nhà văn Trần Văn Chi là người lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam có nhiều khó khăn nên tác giả đã hoạt động tích cực trong ngành văn hóa giáo dục. Tác giả từng là người vận động góp công xây dựng nền đại học quốc gia như Đại Học Cần Thơ, Đại Học Hòa Hảo. Trong phạm vi văn hóa giáo dục, ông thể hiện được sứ mạng của người cầm bút, luôn viết về văn hóa miền Nam, một nền văn hóa nhân bản, hòa ái, nêu cao những tính chất của con người miền Nam."
 

Nhà văn Nam Sơn Trần Văn Chi trong buổi ra mắt 3 tác phẩm hồi tháng 8/2024 đã tâm sự: "Bất cứ ai đọc vài bài trong cuốn ‘Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư’ đều thấy có mình ở trong đó, cảm thấy tình cảm quê hương rất tự nhiên không cần tô vẽ gì thêm, như trong bài ‘Chỗ Quê Hương Đẹp Hơn Cả’ (trang 133), ai đọc cũng hiểu thế nào là quê hương. Nhất là khi qua xứ người mới thấy thú vị chứ nếu ở trong nước thì chắc tôi không viết được như vậy."
 

Tác giả Trần Văn Chi cũng giải thích về cơ duyên được Sư cô dịch sang tiếng Anh: “Thật ra cuốn ‘Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư’ này tôi viết từng bài ở trang Văn Học Nghệ Thuật trên nhật báo Người Việt hàng tuần lúc trước. Hồi đó phải viết tay rồi nhờ người đánh máy, sau này tôi tự tập đánh máy rồi gởi bài qua tòa soạn. Đây là cuốn sách đắc ý nhất lần thứ ba được in lại ở Mỹ, có chỉnh sửa lỗi sai sót trong hai ấn bản 2005-2006 và có thêm hình ảnh minh họa theo bài. Điều tâm đắc ở đây là sau khi cuốn sách này, do nhà xuất bản Sống ấn hành 2024, ra đời, nó được một sư cô đọc qua và rất thích nên đã phát tâm dịch sang tiếng Anh. Sư cô đang làm thủ tục đưa qua Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ để làm tài liệu tham khảo về văn hóa Việt Nam thời đó.”
 

Dịch giả đó là Sư cô Liên Nha, bút hiệu là Huyền Trí, và bản tiếng Anh bây giờ đã có bán ở Nhà sách Tự Lực, hay là trên mạng Amazon:
https://www.amzn.com/B0DKC5VQVF 






Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thành phố của tôi đích thực là Hà Nội: tôi sinh ra ở đó, tôi đã sống trọn vẹn thời tuổi trẻ ở đó. Nhưng tôi có một ông bác ưa phiêu lưu, sớm rời bỏ thành phố sinh trưởng, đi bén rễ ở một nơi mà ngày nhỏ tôi tưởng như xa xôi lắm. Đảo Phú Quốc ở mãi tận cùng đất nước. Những giấc mơ tuổi trẻ của tôi thường hướng về chân trời thật xa đó. Những giấc mơ cũng có khi hiện thành sự thật với những gánh hát tự miền xa tới trình diễn. Bao nhiêu đêm rực rỡ ánh sáng tiền trường, vang vang tiếng ca giọng nói của miền xa
Ngày 30 tháng 4 năm 2020 đánh dấu 45 năm Miền Nam Việt Nam thất thủ. Khởi đi từ đó dù cuộc chiến bom đạn đã chấm dứt trên quê hương nhưng lại mở ra một trận chiến âm thầm khốc liệt và đau thương khác cho dân tộc. Đó là cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, giữa tự do và độc tài, giữa nhân đạo và bất nhân mà bằng chứng cụ thể là hàng triệu người dân ruồng bỏ chế độ độc tài đảng trị tàn bạo cộng sản ra đi bằng đường bộ và đường biển khiến cho cả triệu người phải vùi thây dưới lòng đại dương hay chôn thân trong rừng sâu núi thẳm. Từ bối cảnh đó hai chữ “thuyền nhân” ra đời trong sự thức tỉnh của lương tâm nhân loại trước định mệnh nghiệt ngã của dân tộc Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20. Trong ý nghĩa này, thuyền nhân là những người dám xông vào cõi chết để tìm đất sống.Tại sao phải bỏ nước ra đi? Tại sao một dân tộc có lịch sử mấy nghìn năm kiên trì bất bại bám giữ từng tấc đất của ông bà tổ tiên để lại như người Việt Nam lại phải chọn lựa cho mình con đường bỏ nước ra đi đầy hung hiểm
Ba người đàn ông ngồi quây xung quanh cái bàn gỗ tròn trong quán và cùng hướng về phía quốc lộ chạy mất hút vào trong rừng cao su ở hai bên. Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc nhà, sát cạnh con đường đất xe hơi có thể vào, ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố là đồn dân vệ rào ba lần thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá và quần xà lỏn, một chân co lên mặt ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo ka-ki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lãnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả màu, trước một ly cà phê sữa. “Có lẽ tụi nó về hết rồi.” Ông già nói. “Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa về.” “Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mày thuộc hết số xe còn gì? Thằng này điếm quá.” “Ờ... tôi nhớ nhưng biết cái nào tới trước cái nào tới sau?”
Nhân loại đang đối phó với một trận dịch bệnh vô cùng nguy hiểm. Những mong manh của đời người hiển lộ ra rõ ràng hơn. Những khổ đau không còn là chuyện nghe nói của ký ức hay chỉ đọc trong sách vở, nhưng là những gì hôm nay chúng ta nhìn thấy ngay ngoài phố, góc chợ và màn hình điện thoại. Giữa các khổ đau trùng trùng của phận người như thế, tôn giáo đã trở thành nơi nương tựa thiết thân cho nhiều người, trong đó các lời cầu nguyện và than khóc được ghi vào âm nhạc và thi ca như các bậc thang hướng về cõi an lành, nơi đó đi song song với khổ đau là hy vọng. Bài này sẽ khảo sát về bốn tôn giáo lớn của nhân loại qua mắt nhìn thi ca về khổ đau và hướng tới hy vọng, sẽ viết theo thứ tự đông tín đồ nhất --- Thiên Chúa Giáo nhiều hệ phái (31.5% dân số thế giới), Hồi Giáo (23.2%), Ấn Độ Giáo (15.0%), Phật Giáo (7.1%) --- trong đó 3 tôn giáo lớn nhất tin vào Đấng Sáng Tạo, duy chỉ Phật Giáo nói rằng không hề có Thượng Đế nào trên đời này cả.
Nhưng không. Hắn không nằm mơ. Hắn biết chắc rằng nếu đây chỉ là giấc mơ thì chủ đích trở về thực tại đã không thất bại. Hắn đã không tỉnh dậy. Cảm giác mềm mại của lớp vải bên trong quan tài, hắn cảm thấy, cùng lúc cái “mùi thối” trở lại, thối khủng khiếp, thối đến nỗi hắn đâm ra nghi ngờ, không biết đó có phải “mùi thối” của chính mình không. Hắn muốn nhìn bà con dòng họ hắn trước khi hắn tan rữa, và cảnh tượng một đống thịt thối rữa hiện ra trước mắt chắc hẳn sẽ làm họ chết khiếp vì kinh tởm. Hàng xóm sẽ xúm nhau bỏ chạy, ai nấy lấy khăn tay che miệng, và nhổ nước bọt liên hồi. Không. Không thể thế được. Tốt hơn họ phải đem hắn đi chôn ngay. Tốt hơn phải dẹp bỏ ngay “cái đó,” càng sớm càng tốt. Lúc này, thậm chí chính hắn cũng muốn vứt đi thân xác mình. Bây giờ hắn biết rất rõ hắn đã chết, hoặc, có sống thì cũng chẳng đáng kể, chẳng ra gì. Có khác biệt nào không? Trường hợp nào thì cái “mùi thối” vẫn ngoan cố bốc lên. Với lần bỏ cuộc này hắn sẽ được nghe lời kinh cầu nguyện
Chỉ cần lão bước thêm một bước nữa, hay nói chính xác hơn là lão đụng vào mẹ hắn, một cú bàn long cước sẽ tung thẳng vào cuống họng của lão, và tiếp đó là một cú cắm thiết chõ vào ngay giữa trán lão. Cú đòn này hắn đã luyện suốt hơn hai mươi năm nay, từ thời ngăn sông cấm chợ, cái thời mà các lò võ phải lén lút tập luyện lúc ba giờ sáng, các võ đài do nhà nước mở ra chỉ để đánh cuội mang tính trình diễn và những võ sĩ thực thụ không bao giờ bước lên võ đài ấy. Hắn luôn sống trong hối hận và ăn năn.
Nhớ lại năm 1407, quân Minh xâm lược Đại Việt ta, cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải sang Kim Lăng, nước Tàu. Nguyễn Trãi khóc tiễn cha đến tận ải Nam Quan thì Nguyễn Phi Khanh khuyên ông trở về mưu đồ phục thù và rửa hận cho cha bằng con đường cứu nước. Nói tới Nguyễn Trãi mà tiếc cho nước mắt của ông. Ngày xưa, khi tiễn cha bị đày qua Tàu nước mắt Nguyễn Trãi đã thấm ướt cửa ải nước Việt. Ngày nay Ải Nam Quan đã thuộc phần đất của Tàu, thế thì nước mắt ngày xưa của Nguyễn Trãi nay đã trở thành giọt lệ khô trên đất Tàu vậy.
Bây giờ, mỗi lần đi coi hát, nhìn thấy những diễn viên thủ những vai phụ, tôi lại chợt nhớ đến Liêm. Tôi nhìn lên những diễn viên đó (những diễn viên mà suốt một vở tuồng chỉ xuất hiện vào khoảng độ mười phút trở lại) lòng se sắt một nỗi buồn. Hình ảnh của họ là hình ảnh của Liêm mười năm về trước. Cũng những vai trò tầm thường ấy, cũng những câu nói ngắn ngủi ấy, có khi là một vai lính hầu suốt buổi hát chỉ chờ để “Dạ” một tiếng thật lớn, có khi là một vai tướng cướp, một tên côn đồ hung dữ mà vở tuồng chưa qua khỏi màn đầu đã bị giết chết. Tôi nhìn họ, nghĩ đến những chiếc tàu nằm ở những ga hẻo lánh, suốt đời chỉ giữ có mỗi một nhiệm vụ là đẩy giúp những con tàu chính lên khỏi một đoạn đèo dốc. Ngày xưa, đã có lần tôi ví Liêm là chiếc đầu tàu xe lửa đó.Liêm với tôi quen nhau hết sức tình cờ. Ngày ấy tôi đi theo một đoàn hát cải lương lưu diễn quanh năm tại các tỉnh miền Bắc. Tôi giữ vai trò cũng không lấy gì làm quan trọng lắm trong đoàn hát này. Suốt ngày, tôi chỉ có một nhiệm vụ
Một buổi sáng nọ giữa tháng ba như mọi ngày người đàn ông gốc Việt cư ngụ nơi một thành phố miền Nam California ra khỏi nhà để đi bộ. Ông nhìn thấy một thế giới khác. Con đường không một bóng người qua lại. Xe cộ chỉ vài ba chiếc vụt qua rồi để lại một khoảng không trống rỗng. Thường ngày vào lúc đó con đường này đầy xe cộ và người đi bộ đưa trẻ em đến trường đi học. Hôm đó, ngay sau ngày, 19 tháng 3 năm 2020, Thống Đốc California ra lệnh người dân ở trong nhà và đóng cửa tất cả cơ sở kinh doanh không quan trọng, con đường này vắng hoe, im lặng, trống trải dị thường! Rồi những ngày sau đó, nhiều thành phố, nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ tuyên bố đóng cửa các cơ sở kinh doanh không quan trọng và những ai không có việc cần đi thì ở trong nhà. Nhiều nước trên thế giới cũng thực hiện cùng những biện pháp để chận đứng đà lây lan nhanh chóng không thể tả của đại dịch COVID-19, vốn phát xuất từ thành phố Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc từ tháng 11 năm 2019. Cả thế giới chìm sâu vào kho


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.