Hôm nay,  

Phỉnh

02/01/202500:00:00(Xem: 3478)

Phỉnh
Truyện vừa, Khánh Trường.
 
LTS: Lục lại những email cuối, Khánh Trường viết: “Nina, chú đã hoàn chỉnh, cháu “save” vào 1 file riêng để mai mốt xong sẽ nhờ người layout rồi gửi in.”  Email kế tiếp là hình hai bìa khác nhau. KT viết: “Một bìa chú sẽ post lên facebook để “phỉnh”, bìa sau cháu giữ trong máy. Sẽ in. Sẽ chuyển dần cho cháu dò chánh tã.” (Những người biết KT, biết chữ “tã” của KT dấu “ngã”.)

Sách “Phỉnh” không biết đã được bao nhiêu đoạn trong máy computer, nhưng đây là phần I của cuốn tiểu thuyết cuối cùng Khánh Trường đang viết dở... với hình bìa sau đã hoàn chỉnh...  Riêng bìa trước xin chờ xem khi/nếu sách được in trong tương lai. (Nina HB Lê)
 
*

KHÁNH TRƯỜNG
Tặng cháu của chú, Nina Hòa Bình Lê

*
 
là khi trái tim phỉnh cái đầu
mở ra bầu trời
mời gọi giấc mơ
là khi chênh vênh trên miệng vực
ảo tưởng một bàn tay
chìa ra hy vọng                  
(Nina Hòa Bình Lê)

phỉnh-bìa-sau
Bìa sau sách Phỉnh
  
Phần I
 
Khu Nursing Home gồm bốn dãy nhà quây thành hình vuông. Mỗi dãy có tám phòng, cửa mở ra chái hiên rộng, lát gạch hoa có tam cấp dẫn vào mảnh vườn trồng nhiều cây trái nhiệt đới: mít, xoài, nhãn lồng, xen kẽ những loại cây và hoa đậm chất đông phương: tùng, liễu, mẫu đơn, phật quả, thiết mộc lan và hồ rộng, thiết kế mỹ thuật. Những con thác từ các mỏm đá cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, đàn cá koi nhởn nhơ quanh các bụi thủy trúc, rải rác nhiều khóm liễu vươn ra từ bờ, sà thấp chạm mặt nước. Mùa hè, sáng, chiều, luôn có các lão niên ngồi trên những băng ghế đá, dưới các gốc cây phủ kín bóng mát bởi những tàn lá rộng, hóng gió, tán gẫu hoặc bày trò vui.

Chủ nhân cơ ngơi này là một người Mỹ gốc Á, đứng tuổi, nên không lạ khi mảnh vườn có khí vị tựa các mảnh vườn thường được mô tả trong các cổ thư Trung Hoa, trầm mặc, sâu lắng.

Tháng mười, lạnh. Buổi chiều thường có những cơn mưa, tiếng mưa rì rào trên mái, nhịp đều. Ông già lăn xe sát khung kính nhìn ra hồ nước lấp lánh vô số hạt thủy tinh phát sinh bởi ánh sáng từ những bóng đèn cách quãng trên bốn chái hiên bao quanh. Không khí tịch mịch. Mọi tiếng động đã bị bức tường cao quanh khu Nursing Home ngăn lại, tách lìa hẳn thế giới phồn hoa và phức tạp, bên ngoài.

Ông già vào đây đã gần ba tháng. Sau ngày vợ bị ung thư phổi qua đời, cậu con trai ở tiểu bang miền đông muốn ông già sang với gia đình hắn nhưng ông bảo,

“Người già rất sợ lạnh, ở đây nắng ấm hợp với ba hơn.”

“Ở đây ai lo cho ba?”, đứa con hỏi.

“Nghe nói có Nursing Home của người Á, hy vọng có nhiều đồng hương bầu bạn. Mày thử hỏi xem, ba muốn vào đó.”

“Không được đâu, người ta đồn, hàng ngày, ở trỏng buồn, bệnh trầm cảm sẽ đưa ba đi sớm.”

“Ối dào, đồn nhảm. Bệnh nhân nặng có khu riêng, chăm sóc đặc biệt, cách ly với người cao niên hoặc bệnh nhẹ. Ba có người bạn ở đó hai năm rồi, ông ta nói rất đầy đủ, từ ăn uống, tắm giặt, khám bệnh, thuốc men và cả vật lý trị liệu, nếu cần. Nói tóm, mọi thứ đã có y công, y tá, y sĩ lo. Cuối tuần thường có các nhóm thiện nguyện đến phát quà, văn nghệ, múa hát, biểu diễn ảo thuật. Lại nữa, có bầu bạn cùng trang lứa trò chuyện, bày nhiều thú vui, cờ tướng, cá ngựa, domino. Qua bển, vợ chồng mày đi làm, các cháu đi học, ba ở nhà một mình, lạnh và cô quạnh, có mà chết sớm thì có.”

Cậu con trai đành chiều ý bố, lên mạng tìm một Nursing Home hội đủ tiên chuẩn như ông già muốn, rồi làm thủ tục đưa ông già vào.

Phòng sáng và thoáng nhờ cửa kính lớn, màn mở toàn phần ban ngày, cộng hai hộp đèn dài turn-on suốt đêm. Mỗi bên ba giường, kê đầu sát tường, phía trên mỗi đầu giường trang bị đầy đủ, ống thở oxy, máy đo áp huyết, máy đo điện tâm đồ. Lối đi ở giữa rộng, thoải mái cho y tá mỗi sáng, chiều đẩy xe đến từng giường, kiểm tra sức khỏe, cho uống thuốc, vui vẻ thăm hỏi, giải thích hoặc đáp ứng mọi yêu cầu của bệnh nhân nếu có thể.

Giường cạnh ông già là một trung niên. Anh ta khoe trước ngày vào đây là một người thích các hoạt động thể dục thể thao, trong một lần đi câu, bị con cá mập mắc câu lôi xuống nước, sau mươi phút chiến đấu một mất một còn, anh ta hạ được con cá bằng nhiều nhát dao nhưng cũng bị nó cắn nát chân phải. Vì thân nhân ở tiểu bang khác nên phải vào đây nghỉ dưỡng. Gã trung niên người Việt, vui tính, hiếu động, trêu chọc đôi lúc khá thô bạo các y tá, thường ba hoa (nhiều phần cường điệu) những cuộc đi câu dài ngày, một mình giữa trời biển mênh mông, có khi sóng êm bể lặng, có lúc bất ngờ bão to gió lớn, có lần phải vật lộn hàng giờ sống chết với những loại cá to hung tợn.

“Bác biết không, toi mạng như chơi nhưng thú lắm”, anh ta nói kèm nụ cười tự mãn.

Giường bên trái là một ông già tóc bạc trắng, ốm, da đồi mồi, giọng nói ngọng. Ông già là chủ một Liquor, nghiện rượu, lúc chưa bị tai biến, ngày nào cũng phải ít nhất hai phần ba chai cô-nhắc. Nửa phần bên trái của ông ta bất khiển dụng, nên dù chưa ngồi xe lăn, song bước chân đi kiểu chấm phẩy. Tuy phát âm khó khăn, ông già vẫn ham nói, người nghe phải chú ý và đoán mới hiểu.

“Bọn homeless thường xuyên vào xin thuốc lá, bịch chip, cái donut, hoặc lon nước ngọt, khúc sandwich kẹp hotdog. Không cho không được, đêm chúng trây trét phân lên cửa kính, cách trả thù thầm lặng mà thâm.”

Ông già tặc lưỡi,

“Thà mất chút đỉnh còn hơn phải lau chùi, vừa tốn thì giờ vừa tởm.”

Giường đối diện là một bà Mỹ trắng, dễ chừng đã trên dưới tám mươi nhưng vẫn chăm chỉ phấn son hàng ngày. Bà không chồng, có cô con gái hình như cùng nghề với mẹ, cũng body bốc lửa, hai trái vú như hai quả dừa xiêm, muốn nhảy chồm khỏi cổ áo pull. Trung bình hai tuần một lần vào thăm mẹ, qua quýt vài lời hỏi han lấy lệ rồi dông. Bà ta bảo, hồi còn trẻ, bà là vũ công múa cột xuất sắc của một Night Club.

“Có phải các Night Club đường H.?”

“Yes, what do you know?”

Ông già không đánh cũng khai,

“Thuở xưa tôi thường đến.”

Tuy các Night Club này chỉ khỏa thân năm mươi phần trăm thôi, nhưng vẫn rất hấp dẫn, vũ công sở hữu một thân thể, rất mời gọi chiếu chăn.

Thường, sau mỗi lần ra khỏi cửa, thể nào ông già cũng mò đến động quen cách hộp đêm chừng hai dặm, cùng con đường, do người Việt Nam làm chủ, để tìm chút “tươi mát”, dù ngày đó vợ ông già còn trẻ, nhan sắc chưa tàn phai. Bọn đàn ông hầu hết đều thế, phở ngon hơn cơm!

Hai người nữa. Một ông Ấn Độ, chủ nhân một Motel loại tầm tầm, ở địa phận nổi tiếng nhiều băng đảng và gái ăn sương. Ông ta bảo, tuy dữ dằn thế vẫn khá tốt, vì nhờ bọn đầu trộm đuôi cướp bảo kê, tốn kém nhưng so ra vẫn còn lời chán. Bọn gái ăn sương thuê phòng không dám dở trò quỵt tiền, hơn thế, nếu bắt được những con mồi sộp, các em thường “lại quả” hào phóng.

Việt Nam có câu “sang như đĩ”, quả không sai.

Bà còn lại, gốc Phi, thiếu thước và tròn quay như bao gạo trăm ký, đi đứng lạch bạch, luôn miệng nhóp nhép các loại chip, khoai tây, lúa mạch, bắp, và lãng tai trầm trọng, mỗi lần muốn trò chuyện phải nói như hét. Bà ta có anh con trai rất hiếu thảo, mỗi chiều luôn vào thăm, không quên mang food to go và các thức ăn vặt theo yêu cầu của mẹ, vì she không ăn được món Mỹ. Anh ta than không thể để mẹ ở nhà vì còn độc thân, lại phải đi làm.

“Lúc còn khỏe my mom chu toàn mọi thứ, chợ búa, nấu nướng, giặt giũ, dọn dẹp cửa nhà. Từ ngày she bị tai biến me phải tự lo thân, cơm hàng cháo chợ, ngán tận cổ, đành chịu.” Anh con trai thở dài cám cảnh.
 
Khu Nursing Home này được nhà nước bao cấp. Hầu hết thuộc thành phần lao động, thu nhập dưới trung bình, thường ăn trợ cấp hoặc như ông già, bảo hiểm thấp. Tuy vậy, nhìn chung, ông già cảm thấy vui, nghĩ chắc chắn sẽ hơn nhiều, nếu phải sang ở với vợ chồng thằng con trai, cơm nước có thể hợp khẩu vị, nhưng tuổi già, ẩm thực không quan trọng, cái quan trọng là không phải vò võ cô quạnh.
 
Mưa vẫn rơi tuy không lớn nhưng dai dẳng chẳng khác mùa đông ở quê nhà, hiện tượng bất thường so với thời gian trước. Vài năm gần đây, theo các nhà khí tượng học do tác động khí thải nhà kính, trái đất nóng lên, hành tinh của chúng ta nói chung, California nói riêng, nạn động đất, thời tiết thay đổi khó lường. Lúc thì hạn hán, cháy rừng, khi thì mưa dầm sùi sụt, lũ lụt, đất chuồi. Nếu không sớm tìm giải pháp khắc phục, nguy cơ động đất, sóng thần sẽ xảy ra khắp nơi, và có thể nhiều quốc gia ven biển, Việt Nam chẳng hạn, sẽ đối diện với nạn mất đất hoặc đất nhiễm mặn không thể canh tác, vì khí hậu nóng lên, băng tan ở bắc cực khiến nước biển dâng cao. Thảm trạng đói kém do thiên tai hoặc con người gây nên (chiến tranh hạt nhân, ví dụ), sẽ đẩy nhân loại vào cảnh khốn cùng, diệt vong. Ông già nghĩ, bốn tỷ rưỡi năm trôi qua, từ lúc trái đất khai sinh, đã có vô số biến thiên, thậm chí, nhiều nền văn minh bị xóa sạch, định luật vô thường tái đi tái lại không biết bao nhiêu lần, sá gì vài ba kiếp người cỏn con!

Nói theo triết học đông phương, có sinh ắt có diệt, có thịnh ắt có suy, có thành ắt có bại, chuyện tất nhiên, như thời tiết bốn mùa. Hết mưa đến nắng, hết đông sang xuân, vòng tuần hoàn bất tận từ vô thủy đến vô chung, hơi đâu toan tính sâu xa, khéo lo con bò trắng răng!

Trời đã sáng hẳn, đồng hồ treo tường gõ tám tiếng. Ngày mới bắt đầu với mọi sinh hoạt bất biến. Ông già nghe thấy tiếng động quen thuộc ngoài hành lang, y công đang đi gom rác, thức ăn thừa chứa trong các thùng nhựa lớn đặt trước mỗi phòng, và thay ra, bao gối hay quần áo dơ cho người nào cần giúp. Cũng là giờ y tá đẩy xe thuốc đến từng giường.

Ngày mai chủ nhật, sẽ có nhóm thiện nguyện thuộc đại học cộng đồng thành phố sở tại vào ủy lạo, có cả trình diễn văn nghệ do các sinh viên đảm trách. Bà manager cho biết hồi chiều.
 
(còn tiếp)
Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi. Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời...
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).
Nó đứng như tượng biết cử động suốt ngày đêm. Tôi chưa biết phải làm gì với nó, nhưng tò mò muốn theo dõi. Mang thức ăn và nước uống mới đến mỗi buổi chiều. Tuy bốn chân bị dính cứng trong keo, nhưng mỗi khi tôi đến gần, ngày hôm trước, mắt nó tỏ vẻ giận dữ, cử chỉ hành hung như con vật trong màn múa rối; ngày hôm sau mắt tỏ vẻ nghĩ ngợi, cử động phòng thủ nhiều hơn hăm dọa; ngày thứ ba mắt nhìn thấy buồn bã và cầu khẩn, thoi thóp. Nó chết ngày thứ tư. Thân hình phục xuống trên bốn chân. Đầu gục về phía trước dính vào keo. Mắt nhắm hơn một nửa, hí nhìn không còn cảm giác.
Ngưởì Việt di tản tỵ nạn khi qua đây mới học được tiếng Anh. Cho dù, cuối cùng tốt nghiệp được đại học nhưng có lẽ cũng không thể nào biết tới hết 118 chữ đồng nghĩa với Death trong tự điển Thesaurus được. Ngay người Mỹ bản xứ cũng thế, nói chi đến các chữ khác.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Con người của toán học và kỹ thuật nhưng tâm hồn lại dành cho văn chương. Chính văn chương đã nâng anh dậy thành một nhà văn xứng với cái tên Trần Quí Sách tiền định. Từ năm 1964, anh đã có truyện và thơ trên Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành và Ý Thức. Năm 2004, anh về hưu và dành tất cả thời gian cho văn học Việt Nam với Thư Ấn Quán và Thư Quán Bản Thảo. Anh đã biến căn nhà ở Plainfield, New Jersey, thành nhà in gồm toàn máy móc cũ mua rẻ trên e-Bay để “chế tạo” những cuốn sách từ A đến Z.
Có lẽ từ khi xem cuốn phim Casablanca, một cuốn phim khá xưa, tôi có ý thích đi Morocco. Phim kể về một chuyện tình trong bối cảnh đệ nhị thế chiến. Humphrey Bogart và Ingrid Bergman thủ vai chính. Lúc đó, nhiều nơi trên đất Pháp đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Rất nhiều người chạy trốn Hitler bằng những con đường gian truân. Đi từ Paris, đến Marseilles, đến Lisbon, thoát qua Morocco. Để từ quốc gia ở bắc Phi lo giấy tờ trốn qua Hoa Kỳ. Hình ảnh Ingrid Bergman trong vai Ilsa cúi xuống nói với người nhạc công: “Sam, play it once, play “As Time Goes By”, đã đọng lại thật lâu trong trí nhớ tôi. Vì những lý do ngẫu nhiên, mà chuyến công tác sang Morocco cứ bị dời mãi. Hoạch định từ đầu năm, mãi đến tháng Sáu mới lên lịch được. Tôi nói với thượng cấp của tôi, sẽ lấy một tuần nghỉ phép sau khi đi làm ở Morocco. Lúc đó con tôi cũng được nghỉ lễ hai tuần, rất tiện. Chúng tôi sẽ về nhà Ba Mạ tôi.
Gửi BS Trần Quí Thoại, như một nén nhang tưởng nhớ người lính, nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư. Thác là thể phách, còn là tinh anh. (Nguyễn Du) Những tấm hình chụp nhà văn Trần Hoài Thư trên giường bệnh là của BS Trần Quí Thoại, con trai Trần Hoài Thư gửi cho BS Ngô Thế Vinh với ghi chú: “để Bác Vinh viết về những ngày cuối cùng của Ba con.”
Tháng 6/2024 là ngày giỗ nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh (nhà báo, nhà thơ, nhà văn) nên nhân dịp nầy tôi viết về cuộc tình của bà với nhà văn Nguyễn Quang. Nữ sĩ MĐHT nổi tiếng từ trong nước đến hải ngoại, và cũng là người phục hồi lại Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại nên tên tuổi bà được mọi người biết đến nhưng “Đằng sau một người đàn bà thành công luôn có bóng dáng người đàn ông” ở trường hợp nầy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.