Hôm nay,  

Phỉnh

02/01/202500:00:00(Xem: 3469)

Phỉnh
Truyện vừa, Khánh Trường.
 
LTS: Lục lại những email cuối, Khánh Trường viết: “Nina, chú đã hoàn chỉnh, cháu “save” vào 1 file riêng để mai mốt xong sẽ nhờ người layout rồi gửi in.”  Email kế tiếp là hình hai bìa khác nhau. KT viết: “Một bìa chú sẽ post lên facebook để “phỉnh”, bìa sau cháu giữ trong máy. Sẽ in. Sẽ chuyển dần cho cháu dò chánh tã.” (Những người biết KT, biết chữ “tã” của KT dấu “ngã”.)

Sách “Phỉnh” không biết đã được bao nhiêu đoạn trong máy computer, nhưng đây là phần I của cuốn tiểu thuyết cuối cùng Khánh Trường đang viết dở... với hình bìa sau đã hoàn chỉnh...  Riêng bìa trước xin chờ xem khi/nếu sách được in trong tương lai. (Nina HB Lê)
 
*

KHÁNH TRƯỜNG
Tặng cháu của chú, Nina Hòa Bình Lê

*
 
là khi trái tim phỉnh cái đầu
mở ra bầu trời
mời gọi giấc mơ
là khi chênh vênh trên miệng vực
ảo tưởng một bàn tay
chìa ra hy vọng                  
(Nina Hòa Bình Lê)

phỉnh-bìa-sau
Bìa sau sách Phỉnh
  
Phần I
 
Khu Nursing Home gồm bốn dãy nhà quây thành hình vuông. Mỗi dãy có tám phòng, cửa mở ra chái hiên rộng, lát gạch hoa có tam cấp dẫn vào mảnh vườn trồng nhiều cây trái nhiệt đới: mít, xoài, nhãn lồng, xen kẽ những loại cây và hoa đậm chất đông phương: tùng, liễu, mẫu đơn, phật quả, thiết mộc lan và hồ rộng, thiết kế mỹ thuật. Những con thác từ các mỏm đá cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, đàn cá koi nhởn nhơ quanh các bụi thủy trúc, rải rác nhiều khóm liễu vươn ra từ bờ, sà thấp chạm mặt nước. Mùa hè, sáng, chiều, luôn có các lão niên ngồi trên những băng ghế đá, dưới các gốc cây phủ kín bóng mát bởi những tàn lá rộng, hóng gió, tán gẫu hoặc bày trò vui.

Chủ nhân cơ ngơi này là một người Mỹ gốc Á, đứng tuổi, nên không lạ khi mảnh vườn có khí vị tựa các mảnh vườn thường được mô tả trong các cổ thư Trung Hoa, trầm mặc, sâu lắng.

Tháng mười, lạnh. Buổi chiều thường có những cơn mưa, tiếng mưa rì rào trên mái, nhịp đều. Ông già lăn xe sát khung kính nhìn ra hồ nước lấp lánh vô số hạt thủy tinh phát sinh bởi ánh sáng từ những bóng đèn cách quãng trên bốn chái hiên bao quanh. Không khí tịch mịch. Mọi tiếng động đã bị bức tường cao quanh khu Nursing Home ngăn lại, tách lìa hẳn thế giới phồn hoa và phức tạp, bên ngoài.

Ông già vào đây đã gần ba tháng. Sau ngày vợ bị ung thư phổi qua đời, cậu con trai ở tiểu bang miền đông muốn ông già sang với gia đình hắn nhưng ông bảo,

“Người già rất sợ lạnh, ở đây nắng ấm hợp với ba hơn.”

“Ở đây ai lo cho ba?”, đứa con hỏi.

“Nghe nói có Nursing Home của người Á, hy vọng có nhiều đồng hương bầu bạn. Mày thử hỏi xem, ba muốn vào đó.”

“Không được đâu, người ta đồn, hàng ngày, ở trỏng buồn, bệnh trầm cảm sẽ đưa ba đi sớm.”

“Ối dào, đồn nhảm. Bệnh nhân nặng có khu riêng, chăm sóc đặc biệt, cách ly với người cao niên hoặc bệnh nhẹ. Ba có người bạn ở đó hai năm rồi, ông ta nói rất đầy đủ, từ ăn uống, tắm giặt, khám bệnh, thuốc men và cả vật lý trị liệu, nếu cần. Nói tóm, mọi thứ đã có y công, y tá, y sĩ lo. Cuối tuần thường có các nhóm thiện nguyện đến phát quà, văn nghệ, múa hát, biểu diễn ảo thuật. Lại nữa, có bầu bạn cùng trang lứa trò chuyện, bày nhiều thú vui, cờ tướng, cá ngựa, domino. Qua bển, vợ chồng mày đi làm, các cháu đi học, ba ở nhà một mình, lạnh và cô quạnh, có mà chết sớm thì có.”

Cậu con trai đành chiều ý bố, lên mạng tìm một Nursing Home hội đủ tiên chuẩn như ông già muốn, rồi làm thủ tục đưa ông già vào.

Phòng sáng và thoáng nhờ cửa kính lớn, màn mở toàn phần ban ngày, cộng hai hộp đèn dài turn-on suốt đêm. Mỗi bên ba giường, kê đầu sát tường, phía trên mỗi đầu giường trang bị đầy đủ, ống thở oxy, máy đo áp huyết, máy đo điện tâm đồ. Lối đi ở giữa rộng, thoải mái cho y tá mỗi sáng, chiều đẩy xe đến từng giường, kiểm tra sức khỏe, cho uống thuốc, vui vẻ thăm hỏi, giải thích hoặc đáp ứng mọi yêu cầu của bệnh nhân nếu có thể.

Giường cạnh ông già là một trung niên. Anh ta khoe trước ngày vào đây là một người thích các hoạt động thể dục thể thao, trong một lần đi câu, bị con cá mập mắc câu lôi xuống nước, sau mươi phút chiến đấu một mất một còn, anh ta hạ được con cá bằng nhiều nhát dao nhưng cũng bị nó cắn nát chân phải. Vì thân nhân ở tiểu bang khác nên phải vào đây nghỉ dưỡng. Gã trung niên người Việt, vui tính, hiếu động, trêu chọc đôi lúc khá thô bạo các y tá, thường ba hoa (nhiều phần cường điệu) những cuộc đi câu dài ngày, một mình giữa trời biển mênh mông, có khi sóng êm bể lặng, có lúc bất ngờ bão to gió lớn, có lần phải vật lộn hàng giờ sống chết với những loại cá to hung tợn.

“Bác biết không, toi mạng như chơi nhưng thú lắm”, anh ta nói kèm nụ cười tự mãn.

Giường bên trái là một ông già tóc bạc trắng, ốm, da đồi mồi, giọng nói ngọng. Ông già là chủ một Liquor, nghiện rượu, lúc chưa bị tai biến, ngày nào cũng phải ít nhất hai phần ba chai cô-nhắc. Nửa phần bên trái của ông ta bất khiển dụng, nên dù chưa ngồi xe lăn, song bước chân đi kiểu chấm phẩy. Tuy phát âm khó khăn, ông già vẫn ham nói, người nghe phải chú ý và đoán mới hiểu.

“Bọn homeless thường xuyên vào xin thuốc lá, bịch chip, cái donut, hoặc lon nước ngọt, khúc sandwich kẹp hotdog. Không cho không được, đêm chúng trây trét phân lên cửa kính, cách trả thù thầm lặng mà thâm.”

Ông già tặc lưỡi,

“Thà mất chút đỉnh còn hơn phải lau chùi, vừa tốn thì giờ vừa tởm.”

Giường đối diện là một bà Mỹ trắng, dễ chừng đã trên dưới tám mươi nhưng vẫn chăm chỉ phấn son hàng ngày. Bà không chồng, có cô con gái hình như cùng nghề với mẹ, cũng body bốc lửa, hai trái vú như hai quả dừa xiêm, muốn nhảy chồm khỏi cổ áo pull. Trung bình hai tuần một lần vào thăm mẹ, qua quýt vài lời hỏi han lấy lệ rồi dông. Bà ta bảo, hồi còn trẻ, bà là vũ công múa cột xuất sắc của một Night Club.

“Có phải các Night Club đường H.?”

“Yes, what do you know?”

Ông già không đánh cũng khai,

“Thuở xưa tôi thường đến.”

Tuy các Night Club này chỉ khỏa thân năm mươi phần trăm thôi, nhưng vẫn rất hấp dẫn, vũ công sở hữu một thân thể, rất mời gọi chiếu chăn.

Thường, sau mỗi lần ra khỏi cửa, thể nào ông già cũng mò đến động quen cách hộp đêm chừng hai dặm, cùng con đường, do người Việt Nam làm chủ, để tìm chút “tươi mát”, dù ngày đó vợ ông già còn trẻ, nhan sắc chưa tàn phai. Bọn đàn ông hầu hết đều thế, phở ngon hơn cơm!

Hai người nữa. Một ông Ấn Độ, chủ nhân một Motel loại tầm tầm, ở địa phận nổi tiếng nhiều băng đảng và gái ăn sương. Ông ta bảo, tuy dữ dằn thế vẫn khá tốt, vì nhờ bọn đầu trộm đuôi cướp bảo kê, tốn kém nhưng so ra vẫn còn lời chán. Bọn gái ăn sương thuê phòng không dám dở trò quỵt tiền, hơn thế, nếu bắt được những con mồi sộp, các em thường “lại quả” hào phóng.

Việt Nam có câu “sang như đĩ”, quả không sai.

Bà còn lại, gốc Phi, thiếu thước và tròn quay như bao gạo trăm ký, đi đứng lạch bạch, luôn miệng nhóp nhép các loại chip, khoai tây, lúa mạch, bắp, và lãng tai trầm trọng, mỗi lần muốn trò chuyện phải nói như hét. Bà ta có anh con trai rất hiếu thảo, mỗi chiều luôn vào thăm, không quên mang food to go và các thức ăn vặt theo yêu cầu của mẹ, vì she không ăn được món Mỹ. Anh ta than không thể để mẹ ở nhà vì còn độc thân, lại phải đi làm.

“Lúc còn khỏe my mom chu toàn mọi thứ, chợ búa, nấu nướng, giặt giũ, dọn dẹp cửa nhà. Từ ngày she bị tai biến me phải tự lo thân, cơm hàng cháo chợ, ngán tận cổ, đành chịu.” Anh con trai thở dài cám cảnh.
 
Khu Nursing Home này được nhà nước bao cấp. Hầu hết thuộc thành phần lao động, thu nhập dưới trung bình, thường ăn trợ cấp hoặc như ông già, bảo hiểm thấp. Tuy vậy, nhìn chung, ông già cảm thấy vui, nghĩ chắc chắn sẽ hơn nhiều, nếu phải sang ở với vợ chồng thằng con trai, cơm nước có thể hợp khẩu vị, nhưng tuổi già, ẩm thực không quan trọng, cái quan trọng là không phải vò võ cô quạnh.
 
Mưa vẫn rơi tuy không lớn nhưng dai dẳng chẳng khác mùa đông ở quê nhà, hiện tượng bất thường so với thời gian trước. Vài năm gần đây, theo các nhà khí tượng học do tác động khí thải nhà kính, trái đất nóng lên, hành tinh của chúng ta nói chung, California nói riêng, nạn động đất, thời tiết thay đổi khó lường. Lúc thì hạn hán, cháy rừng, khi thì mưa dầm sùi sụt, lũ lụt, đất chuồi. Nếu không sớm tìm giải pháp khắc phục, nguy cơ động đất, sóng thần sẽ xảy ra khắp nơi, và có thể nhiều quốc gia ven biển, Việt Nam chẳng hạn, sẽ đối diện với nạn mất đất hoặc đất nhiễm mặn không thể canh tác, vì khí hậu nóng lên, băng tan ở bắc cực khiến nước biển dâng cao. Thảm trạng đói kém do thiên tai hoặc con người gây nên (chiến tranh hạt nhân, ví dụ), sẽ đẩy nhân loại vào cảnh khốn cùng, diệt vong. Ông già nghĩ, bốn tỷ rưỡi năm trôi qua, từ lúc trái đất khai sinh, đã có vô số biến thiên, thậm chí, nhiều nền văn minh bị xóa sạch, định luật vô thường tái đi tái lại không biết bao nhiêu lần, sá gì vài ba kiếp người cỏn con!

Nói theo triết học đông phương, có sinh ắt có diệt, có thịnh ắt có suy, có thành ắt có bại, chuyện tất nhiên, như thời tiết bốn mùa. Hết mưa đến nắng, hết đông sang xuân, vòng tuần hoàn bất tận từ vô thủy đến vô chung, hơi đâu toan tính sâu xa, khéo lo con bò trắng răng!

Trời đã sáng hẳn, đồng hồ treo tường gõ tám tiếng. Ngày mới bắt đầu với mọi sinh hoạt bất biến. Ông già nghe thấy tiếng động quen thuộc ngoài hành lang, y công đang đi gom rác, thức ăn thừa chứa trong các thùng nhựa lớn đặt trước mỗi phòng, và thay ra, bao gối hay quần áo dơ cho người nào cần giúp. Cũng là giờ y tá đẩy xe thuốc đến từng giường.

Ngày mai chủ nhật, sẽ có nhóm thiện nguyện thuộc đại học cộng đồng thành phố sở tại vào ủy lạo, có cả trình diễn văn nghệ do các sinh viên đảm trách. Bà manager cho biết hồi chiều.
 
(còn tiếp)
Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
Văn học về sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết là một chủ đề cần thiết cho nhà văn sáng tác tác phẩm hư cấu bằng tiếng việt. Những nhà văn không học tập theo lề lối chính quy thường tự tin vào khả năng sáng tạo bẩm sinh và khả năng thu thập kinh nghiệm, gọi là “khiếu”, để trở thành nhà văn tự nhiên, cũng đôi khi là nhà văn bỗng nhiên. Những nhà văn được huấn luyện từ trường ốc, nếu không thường xuyên cập nhật văn học sáng tác đương đại, sẽ lỗi thời. Những nhà văn nổi bật trong lịch sử văn chương, thông thường là những người có khả năng tự học rất cao. Song song với sáng tác, họ là những nhà văn học lỗi lạc, cho dù, có thể họ không viết một điều gì về nghiên cứu phê bình. Tôi không phải là người có “khiếu” văn chương cao, cũng không thông qua quá trình học viện hoặc trường lớp sáng tác, chỉ có ý thích tìm hiểu văn học và thử nghiệm những gì đã nghiên cứu. [Không phải là lời khiêm nhường mà là lời trung thực.] Và “Nhận Thức Bảy T” là một phần góp nhặt mà tôi đã kinh qua.
Không có gia đình văn chương nào khiến người đời mãi mê nhắc tới như nhà Brontë. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, bao nhiêu thế hệ độc giả, học giả, nghệ sĩ đã lần lượt quay lại ngôi giáo đường nhỏ ở Yorkshire như hành hương về một thánh địa. Những tiểu sử, kịch bản, phim ảnh, cả những vật dụng tầm thường nhất như khăn trải bàn in hình ba chị em, tất cả tạo thành một nền công nghiệp ký ức, một tín ngưỡng lạ lùng quanh họ. Người ta cứ tìm cách viết thêm, kể thêm, như thể câu chuyện Brontë chưa từng trọn vẹn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.