Hôm nay,  

Trán Dô

28/02/202500:00:00(Xem: 3328)

Thẻ sv HTNT
Cô nhà văn Hoàng Quân, tự xưng là đại diện “Hội Những Người Trán Dồ Yêu Lung Tung”, tự xưng luôn là có cùng ngày sinh nhật với một ông trán dồ nổi tiếng là ông Albert Einstein, ngày 14/3, có gửi mail yêu cầu tôi viết về trán dồ để hy vọng “trán dồ sẽ góp mặt trong mười…một thương”. Tôi nể ông Einstein nên phóng bút.

Trán dồ hay trán dô là cùng một category trán…phi trường. Trán là khu vực nằm từ chân lông mày cho tới chân tóc. Trán bình thường chiếm khoảng 1/3 chiều dài gương mặt. Trán dô lấn sân hơn, vượt qua kích thước thông thường khiến khuôn mặt mất cân đối, kém hài hòa. Nếu nhìn ngang, người ta sẽ thấy phần xương trán của những người trán dô nhô lên cao. Vậy nên nhà văn Hoàng Quân không nên chụp hình profile!

Cái phần dô lên cao này khiến những người trán dô không nằm trong loại người có trán cao. Hai thứ khác nhau tuy cùng thuộc category “rửa mặt thì lâu, chải đầu thì lẹ”. Trán cao có bề ngang rộng, phẳng nhưng có bề cao trung bình. Nói theo phép đo lường thì nếu trán có chiều cao dài hơn một nửa chiều dài của mặt thì gọi là trán cao.

Ngoài hai loại trán dô và trán cao còn có trán hói. Trán hói rất dễ nhận ra. Cứ nhìn vào chân tóc là biết liền. Nếu chân tóc có hình chữ M, nghĩa là hai bên mép trán trống trải không có tóc thì đích thị là hói.

Trong bài này chúng ta chỉ nói về trán dô. Nói cho nhà văn Hoàng Quân mừng, phụ nữ có trán dô là người được ông trời ban cho có trí tuệ hơn người, đầu óc nhạy bén, giỏi giao thiệp. Họ biết sắp xếp cuộc sống của họ một cách có quy củ. Sở hữu tính quyết đoán nên họ luôn tính toán mọi việc  một cách chu toàn nhất. Đó là điểm cộng. Điểm nổi bật khác, không biết cộng hay trừ, là tính tình khó khăn và bướng bỉnh. Ngày xưa, thấy một anh hay chị nhóc có trán dô, các cụ phán ngay là bướng bỉnh, khó dạy. Có lẽ hồi đó các cụ nhiễm nặng vào sự suy đoán do tiền nhân truyền lại nên rất khắt khe. Đâu có phải cứ trán dô là bướng bỉnh khó dạy. Nhiều tên không dô trán cũng khó dạy dàn trời.

Khi ra đời, nếu đi làm, phụ nữ trán dô là những viên ngọc quý trong công tư sở. Họ biết tận dụng mọi cơ hội để biến chúng thành vũ khí đắc lực để phát triển công việc. Nếu làm chủ thì rất cương quyết, khó khăn tới đâu cũng cứ tiến tới, nhất định không bỏ cuộc. Nhờ vậy mà họ thường có hậu vận tốt đẹp, cuộc sống sung túc, có địa vị và vai vế trong xã hội. Đó là điểm cộng. Về chuyện tình cảm, họ có cái tôi khá cao, nên nếu không tự chế, chuyện tình duyên và gia đạo không tránh khỏi những mâu thuẫn đưa đến những cãi vã, có thể dẫn đến cảnh “anh đi đường anh, tôi đường tôi”.

Mấy ông có trán dô thường là những người điềm tĩnh trong mọi tình huống. Họ chịu khó học hỏi. giàu ý chí, nghị lực, không đầu hàng số phận, luôn tìm cách vượt qua khó khăn. Với tính cách lanh lợi, đầu óc thông minh và có tầm nhìn xa trông rộng, họ rất giỏi trong việc lãnh đạo và chỉ huy. Nhược điểm của những ông trán dô là bướng bỉnh, đôi khi khá bảo thủ, khư khư giữ ý kiến của mình, không chịu nghe các góp ý của người khác. Nhiều khi họ cố chấp một cách đáng ghét.

Người sở hữu vầng trán cao, rộng có tài kinh doanh, có ý chí làm giầu mạnh mẽ, thường là những doanh nhân thành đạt. Cứ nhìn vào trán của các ông Elon Musk, Jeff Bezos, Mark Zuckerberg, Bill Gates khắc biết.

Theo các nhà phong thủy, khuôn mặt được coi là “bản đồ” vận mệnh của một đời người. Một khuôn mặt có thể được coi là sáng rỡ hay tối tăm dựa vào “núi” và “sông” trên đó. Người sở hữu khuôn mặt cân đối có khả năng thu hút nhiều tài lộc và những điều tốt lành tới với cuộc sống của họ. Ngược lại, khuôn mặt không cân đối, nhiều khuyết điểm không mang lại nhiều vận may cho chủ nhân của nó.

Khi đối chiếu với khuôn mặt của 100 tỷ phú giầu nhất thế giới, các nhà phong thủy thấy họ có nhiều điểm tương đồng mang lại tài lộc cho bản thân họ. Năm đặc điểm đó là: mặt chữ điền; trán cao, rộng; mũi tròn, thẳng; môi đầy đặn, hồng hào; cằm tròn, đầy đặn.

Phần lớn các tỷ phú đều có khuôn mặt vuông chữ điền. Theo nhân tướng học, mặt chữ điền tượng trưng cho sự quyết đoán, linh hoạt và ổn định. Hai tỷ phú Warren Buffett và Carlos Slim là ví dụ điển hình nhất.

Trán là biểu tượng của sự may mắn và được coi là “ngọn núi vượng khí đầu tiên” trên khuôn mặt. Trán nhẵn, tròn và rộng mang tới quyền lực, vận may và tiền tài.

Mũi được coi là một trong những “con sông” mang lại tiền tài. Theo phong thủy, mũi lý tưởng là mũi tròn và đầy đặn. Càng tròn và càng đầy đặn thì càng nhiều may mắn. Nếu mũi cân đối, không cong vẹo là mũi ngon lành, rất nhiều may mắn. Đối chiếu với mũi của các tỷ phú, chúng ta thấy có hai kiểu mũi đặc trưng mà nhiều tỷ phú sở hữu. Kiểu thứ nhất là chóp mũi khá lớn so với phần còn lại của mũi. Chóp mũi phải thẳng. Tỷ phú Bill Gates có chiếc mũi quý hóa này. Kiểu thứ hai là cả chóp mũi lẫn cánh mũi đều đầy đặn. Đây là kiểu mũi của người quyết đoán, biết nắm bắt cơ hội. Tỷ phú Warren Buffett có kiểu mũi này.

Miệng là “dòng sông” thứ hai trên khuôn mặt. Người sở hữu đôi môi hồng hào, đầy đặn, căng mọng có khả năng thu hút tài lộc. Môi không khô, nứt nẻ mới tốt vì nếu khô thì “dòng sông” bị khô hạn, không còn sự may mắn.

Cuối cùng là cằm. Đây là “ngọn núi” thứ hai của khuôn mặt. Vẫn theo phong thủy, cằm tròn, đầy đặn và rõ nét là dấu hiệu của sự may mắn và khả năng lãnh đạo. Nơi quý ông, đường viền cằm rõ nét thể hiện cá tính mạnh mẽ. Ông chủ hãng thời trang Zara, Amancio Ortega, và nhà đồng sáng lập Google, Larry Page, đều sở hữu chiếc cằm này.

Theo phong thủy, năm điểm trên là điểm tương đồng của các nhà tỷ phú, những người thành công trong sự nghiệp và sở hữu số tài sản kếch xù. Đó là một combo của thành công và may mắn. Ông nhà thơ Quan Dương có bài thơ “Tóc - Tai - Mũi - Họng” xem ra cùng nhịp bước với cuộc điểm danh các bộ phận trên mặt. Ông nói tới hai nhân tố phong thủy nhắc tới trên “núi và sông” của khuôn mặt là “mũi” và “họng”.

Trèo lên sóng mũi dọc dừa
Sẩy chân chợt té xuống bờ môi em
Té nhằm ngay chỗ trăm năm
Bị em đóng một dấu hằn hẳn hoi
.....
Ngậm trong họng ngụm bồi hồi
Giọt cà phê rớt trúng nơi chứa tình
Ghế bàn đang đứng lặng thinh
Bỗng nhiên đột ngột thình lình tung bay

Thiệt là thiếu sót! Thiếu sót dã man nhất là ông lơ đi cái trán. Nó chình ình ngay trên khuôn mặt, nằm ngay dưới chân tóc. Ông thơ về tóc rồi quẹo qua tai, xong xuôi Nam xuống mũi và họng. Bản đồ sông núi trên mặt bị một lỗ thủng to. Nhưng chả trách ông được, ông đâu có là nhà phong thủy. Ông là một người tình. Người tình trăm năm vì thơ ông là một trời tình. Tình chảy suốt một đời thơ.

Trách ông Quan Dương quên cái trán cũng tội cho nhà thơ vì thực ra cái trán nằm chình ình một vầng nhưng là một bộ phận không được trọng dụng trong thơ văn. Nó trơ trơ như các cụ diễn tả “mặt trơ trán bóng”. Vậy nên những người sở hữu trán dô cũng chán cho phận mình. Chỉ được chút an ủi là ông Thọ trong bộ Tam Đa có chiếc trán dô đặc trưng được tô hình tạc tượng cho bàn dân thiên hạ thỉnh về thờ.

Lang thang trên mạng, tôi đọc được nỗi niềm của một cô gái có cái trán dô. “Con gái đúng là trăm ngàn nỗi khổ, và trán dô hay trán "sân bay" là một trong số đó. Người ta thường nói, con gái trán dô thì thông minh, uyên bác rồi giàu sang đủ kiểu. Nhưng sự thật mất lòng, giỏi giang, lợi lộc ở đâu không biết, chỉ biết là vầng trán "sân bay" ấy làm khổ con gái đủ đường luôn. Kể sơ sơ ra cũng được cả một list nỗi khổ: chưa thấy người đã thấy trán, để kiểu tóc gì cũng thấy vô lý đùng đùng rồi thì trời nóng cũng phải để mái không dám vén lên sợ người ta lóa mắt trước cái trán cao đến quá đáng của mình”.

Cô nàng Thiên Di, sanh năm 1996, là ca sĩ kiêm biên đạo biểu diễn, quê ở Quảng Trị, than khổ than sở về cái trán dô của mình. “Cái trán của mình trông như cái đầu luôn các bạn ạ, chán lắm. Đầu thì có thể không gội chứ mái tóc thì mình không bỏ sót ngày nào. Nhỏ đến giờ, mình chỉ ước trán mình được bình thường như bao người khác để có thể làm đủ kiểu tóc mình thích...Mình đã thử thay đổi rất nhiều kiểu tóc nhưng kết quả mặt vẫn trông tếu lắm, không ai chấp nhận được. Mà chắc da trán mình dày nên bôi đủ thứ thuốc tóc vẫn không mọc lên”. Thời mà Quảng Trị, quê hương của cô nàng Thiên Di, chưa có sân bay, cô bị bạn bè đùa vui là tỉnh chẳng cần xây cất sân bay làm chi vì đã có sẵn rồi!

Buồn làm chi hỡi các nàng trán dô. Phía đối lập thân mến vẫn có người thích và yêu những cô nàng trán sân bay. Như anh chàng Lạc Hi thổ lộ trên mạng. “Trán dô à, dù bướng em vẫn là con gái, nhớ không? Và chắc chắn ở đâu đó đang có người chờ đợi để được ở cạnh em, và yêu em dài lâu, dù có chuyện gì đi nữa. Người đó có thể là anh và cũng có thể là người khác. Nhưng có một điều không thể phủ nhận, là dù em có đang tự ti với mình nhiều như thế nào, thì sẽ luôn có một người yêu em - yêu những gì thuộc về em rất chân thành! Vậy nên, anh yêu em nhiều lắm, "Trán dô" của anh!”

Sau khi thấy ông Quan Dương thờ ơ với cái trán trong thơ của ông, tôi có mail hỏi coi ông có bao giờ héo lánh tới cái trán dô chưa, ông trả lời: “Vụ trán dồ này thì em cùi rồi”.

Ông nhà thơ Luân Hoán không cùi. Thơ lục phủ ngũ tạng ông còn có huống chi thơ về cái trán sờ sờ trước mắt. Ông thảy cho tôi bài “Phiến Trán Cao”.

mắt thanh mày liễu còn tùy
mái thềm thoáng rộng phương phi đỡ đầu
vẻ ngoài trí tuệ ngự đâu?
nhìn qua thoáng biết nông sâu chân tài
tóc mây cùng với tóc mai
tạo thanh tú cõi trang đài sáp ong
như trang sách chép chuyện lòng
thánh thư vô tự mênh mông rạng ngời
thơ nằm trên thạch bích phơi
man man tâm sự ngàn lời vô ngôn
bước đầu ngượng ngịu môi hôn
lên vùng thánh thoát trải hồn thương yêu

trán em bọc lụa mỹ miều
môi tình dán nhẹ bao nhiêu cho đầy
hôn em tinh khiết nơi này
hẹn che chở mãi tháng ngày có nhau

Còn một người trai trẻ, bật mí ngay đó là con trai của nhà văn Hoàng Quân, đã rất thực dụng khi thấy ích lợi của cái trán dô của mẹ: “Nếu mẹ lỡ đâm sầm vào cửa kính, cái mũi vẫn an toàn vì đã có cái trán đỡ hết rồi!”

Song Thao
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mùa hè năm 1865, ngay sau khi bắt đầu viết Tội Ác và Hình Phạt (Crime and Punishment), đại văn hào vĩ đại nhất mọi thời đại lâm vào hoàn cảnh tệ đến không thể tệ hơn. Vừa góa vợ thì bị nằm liệt giường vì chứng động kinh, Fyodor Dostoyevsky (11/11/1821 – 9/2/1881) còn ‘rước thêm vạ vào thân.’ Sau khi anh trai qua đời, Dostoyevsky, vốn đã nợ nần chồng chất vì máu đỏ đen, đã tự đứng ra gánh món nợ của tòa soạn của anh trai. Chủ nợ nhanh chóng kéo đến gõ cửa nhà ông, đe dọa sẽ tống ông vào nhà tù của những con nợ. (Một thập niên trước, ông suýt chút nữa đã dính án tử hình vì đọc những cuốn sách bị cấm; thay vào đó ông bị kết án bốn năm khổ sai tại một trại lao động ở Siberia – cho nên viễn cảnh bị tù đày lần nữa khiến ông phát hoảng.)
Phải chăng ‘nhìn thấu tim đen’ là một lối nói hàm ý? Vì sao tim lại đen mà không đỏ? Vì trái tim tối tăm, tính toán, mưu đồ. Nhìn thấu tâm lý là nhìn trái tim cả đen lẫn đỏ, cả xấu lẫn tốt, cả buồn lẫn vui, cả thất vọng lẫn hy vọng. Những người giỏi nhìn ra tâm lý người khác, tâm lý đám đông thường trở thành những bậc cao nhân, hoặc ít nhất là thầy bói.“Giỏi nhìn ra tâm lý” là một cụm từ ngụ ý người có học thuật, có tập luyện, có kinh nghiệm nắm bắt những ý nghĩ âm thầm, những cảm giác tâm tư, và cá tính người đối diện. Học tâm lý mà không có khả năng thông tuệ thì chỉ từ chương, ít dùng được vào việc gì quan trọng, ngoài trừ lãnh lương làm cố vấn ở các trường học, các cơ sở nhân viên, hoặc các nhà tù. Muốn nhìn xuyên tâm lý phải bẩm sinh nhạy cảm, cảm nhận sắc bén, và tấm lòng tốt thường làm khả năng thông cảm, đồng cảm mạnh mẽ, dễ dàng nối kết với tâm tình người khác. Đến cấp bậc cao nhân thì khả năng “nhận thức sáng tạo” là lực chủ yếu để nhìn xuyên tâm hồn.
John Steinbeck sinh tại Salinas, California năm 1902 - một thành phố cách xa bờ biển Thái Bình Dương vài dặm, gần Thung Lũng Salinas màu mỡ và cách San Jose khỏang 70 dặm Anh. Nơi đây đã được dùng làm bối cảnh cho nhiều tiểu thuyết của ông...
Nói dối là một đặc tính trong thời đại hôm nay, đầu thế kỷ 21. Có ba loại người: Nói dối chuyên nghiệp vì có mục đích. Nói dối luôn miệng vì thói quen. Nói dối khi cảm thấy cần thiết hoặc sợ hãi. Nói không đúng sự thật nhưng tưởng mình nói thật, cũng là một cách dối. Nói thật và nói dối trên căn bản đối nghịch nhau, nhưng đôi khi, cả hai là một. Vì hầu như vô tình hay cố ý, ít ai thực sự nói thật. Chẳng phải thích thú khi nhìn rõ tim đen của người đang ba hoa cố thuyết phục mình một chuyện gì có lợi cho anh ta? Chẳng phải tức cười khi biết anh này muốn tán tỉnh, nhưng cố nói những lời nghiêm túc? Lào sao biết được? Hãy tập nhìn xuyên giả dối. Tìm người nói thật và đúng sự thật là chuyện hiếm hoi, trước hết, vì ngày nay, sự thật lớn là gì, không ai biết. Còn sự thật nhỏ, chỉ thật một cách tương đối, mỗi người tin khác nhau.
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Sau khi nhổ răng, tôi xin anh nha sĩ trẻ mấy cái răng chết, khá thê thảm, để mang về. Lần trước cũng vậy. Anh tỏ vẻ thông cảm. “Bác giữ làm kỷ niệm?” “Vâng. Chúng nó theo tôi bảy mươi mấy năm rồi. Chiến đấu giỏi lắm. Giữ xác lại để nhớ.” Đúng. Răng kề cận người hơn tình nhân. Ở với người trung thành hơn vợ. Nói cắn là cắn, nói nhai là nhai, nói nhe là nhe, nói ngậm là ngậm. Tuyệt nhiên vâng lời, không cãi cọ gì. Chỉ có già đi, lỏng chân, rồi vĩnh biệt.
Gần đây cô cũng hay nghĩ về người chồng xấu số. Đúng ra cô thấy anh trong những giấc mơ. Cô thấy anh và cô đi dạo tại những nơi chốn thơ mộng của vùng đất cố đô nơi cô sinh ra và lớn lên. Những giấc mơ lạ, bởi cô gặp anh và kết hôn với anh khi cô đã vào Nam. Anh là người miền Nam và không hề ra thăm miền đất đó bao giờ. Nhưng trong giấc mơ cô thấy cô và anh thật rõ, khi thì ngồi bên nhau trong ngôi nhà cổ của ba mạ cô ở khu Gia Hội, khi thì thơ thẩn bên bờ sông Hương gần ngôi trường Trung học thân yêu của cô, khi thì đứng dưới bóng mát ngôi nhà thờ uy nghiêm sừng sững trên một ngọn đồi.
Trong buổi tiếp kiến ban biên tập nguyệt san “Phụ nữ Giáo hội Thế giới” của báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, trong tuần qua, dịp kỷ niệm 10 năm thành lập, Đức Thánh Cha khích lệ mọi người và nói: “Phụ nữ có khả năng nói ba ngôn ngữ: lý trí, trái tim và đôi tay”. Có phải Đức Thánh Cha muốn nói: Đối với phụ nữ ba điều này là một: Một người phụ nữ thông minh họ có thể dùng đầu óc mình để thành đạt trong học vấn, trong nghề nghiệp nhưng đồng thời với trí óc thông minh, trái tim mẫn cảm, họ cũng dùng thêm đôi tay của mình để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ và đầy trí tuệ, đầy tình yêu.
Trên Văn Việt ngày 16 tháng 2 vừa qua, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (University of New South Wales, Sydney, Úc) cho biết một số độc giả trên mạng đã hiểu một cách sai lầm rằng câu “Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ” là thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Từ chuyện ngộ nhận ấy, nhiều vị viết lời bình luận rằng Vũ Hoàng Chương là một người sắt máu, chẳng khác gì Tố Hữu ngoài Bắc. Cũng qua câu trên, có người cho rằng thơ văn miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà cũng “máu me” lắm chứ chẳng nhân bản, nhân văn gì. Theo Giáo sư Tuấn, “Sự thật có lẽ không phải vậy, mà chỉ là một sự bịa đặt trong một cuốn tiểu thuyết, cuốn Ván Bài Lật Ngửa của tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý” (tức nhà văn, nhà biên khảo, Ủy viên Tuyên huấn Trung ương Trần Bạch Đằng). Giáo sư Tuấn cho biết là câu ấy không có trong bài “Lửa từ bi” của Vũ Hoàng Chương, và chụp lại bài thơ “Từ đây” trong tập thơ Hoa Đăng của thi nhân họ Vũ (Sài Gòn : Văn Hữu Á Châu, 1959) để chứng minh rằng câu thơ ghê gớm ấy cũng không có trong đó:
Trong tiểu thuyết HIỆP KHÁCH HÀNH, nhà văn Kim Dung kể chuyện về cuộc phiêu lưu của chàng trai trẻ Thạch Phá Thiên từ năm 12 tuổi, không cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn hữu, không học hành chữ nghĩa, không võ công, không tiền của, mà tình cờ lạc vào giữa chốn võ lâm giang hồ. Đọc xong bộ truyện, tôi tò mò muốn tìm hiểu bài thơ HIỆP KHÁCH HÀNH của thi hào Lý Bạch...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.