Hôm nay,  

Trán Dô

28/02/202500:00:00(Xem: 3322)

Thẻ sv HTNT
Cô nhà văn Hoàng Quân, tự xưng là đại diện “Hội Những Người Trán Dồ Yêu Lung Tung”, tự xưng luôn là có cùng ngày sinh nhật với một ông trán dồ nổi tiếng là ông Albert Einstein, ngày 14/3, có gửi mail yêu cầu tôi viết về trán dồ để hy vọng “trán dồ sẽ góp mặt trong mười…một thương”. Tôi nể ông Einstein nên phóng bút.

Trán dồ hay trán dô là cùng một category trán…phi trường. Trán là khu vực nằm từ chân lông mày cho tới chân tóc. Trán bình thường chiếm khoảng 1/3 chiều dài gương mặt. Trán dô lấn sân hơn, vượt qua kích thước thông thường khiến khuôn mặt mất cân đối, kém hài hòa. Nếu nhìn ngang, người ta sẽ thấy phần xương trán của những người trán dô nhô lên cao. Vậy nên nhà văn Hoàng Quân không nên chụp hình profile!

Cái phần dô lên cao này khiến những người trán dô không nằm trong loại người có trán cao. Hai thứ khác nhau tuy cùng thuộc category “rửa mặt thì lâu, chải đầu thì lẹ”. Trán cao có bề ngang rộng, phẳng nhưng có bề cao trung bình. Nói theo phép đo lường thì nếu trán có chiều cao dài hơn một nửa chiều dài của mặt thì gọi là trán cao.

Ngoài hai loại trán dô và trán cao còn có trán hói. Trán hói rất dễ nhận ra. Cứ nhìn vào chân tóc là biết liền. Nếu chân tóc có hình chữ M, nghĩa là hai bên mép trán trống trải không có tóc thì đích thị là hói.

Trong bài này chúng ta chỉ nói về trán dô. Nói cho nhà văn Hoàng Quân mừng, phụ nữ có trán dô là người được ông trời ban cho có trí tuệ hơn người, đầu óc nhạy bén, giỏi giao thiệp. Họ biết sắp xếp cuộc sống của họ một cách có quy củ. Sở hữu tính quyết đoán nên họ luôn tính toán mọi việc  một cách chu toàn nhất. Đó là điểm cộng. Điểm nổi bật khác, không biết cộng hay trừ, là tính tình khó khăn và bướng bỉnh. Ngày xưa, thấy một anh hay chị nhóc có trán dô, các cụ phán ngay là bướng bỉnh, khó dạy. Có lẽ hồi đó các cụ nhiễm nặng vào sự suy đoán do tiền nhân truyền lại nên rất khắt khe. Đâu có phải cứ trán dô là bướng bỉnh khó dạy. Nhiều tên không dô trán cũng khó dạy dàn trời.

Khi ra đời, nếu đi làm, phụ nữ trán dô là những viên ngọc quý trong công tư sở. Họ biết tận dụng mọi cơ hội để biến chúng thành vũ khí đắc lực để phát triển công việc. Nếu làm chủ thì rất cương quyết, khó khăn tới đâu cũng cứ tiến tới, nhất định không bỏ cuộc. Nhờ vậy mà họ thường có hậu vận tốt đẹp, cuộc sống sung túc, có địa vị và vai vế trong xã hội. Đó là điểm cộng. Về chuyện tình cảm, họ có cái tôi khá cao, nên nếu không tự chế, chuyện tình duyên và gia đạo không tránh khỏi những mâu thuẫn đưa đến những cãi vã, có thể dẫn đến cảnh “anh đi đường anh, tôi đường tôi”.

Mấy ông có trán dô thường là những người điềm tĩnh trong mọi tình huống. Họ chịu khó học hỏi. giàu ý chí, nghị lực, không đầu hàng số phận, luôn tìm cách vượt qua khó khăn. Với tính cách lanh lợi, đầu óc thông minh và có tầm nhìn xa trông rộng, họ rất giỏi trong việc lãnh đạo và chỉ huy. Nhược điểm của những ông trán dô là bướng bỉnh, đôi khi khá bảo thủ, khư khư giữ ý kiến của mình, không chịu nghe các góp ý của người khác. Nhiều khi họ cố chấp một cách đáng ghét.

Người sở hữu vầng trán cao, rộng có tài kinh doanh, có ý chí làm giầu mạnh mẽ, thường là những doanh nhân thành đạt. Cứ nhìn vào trán của các ông Elon Musk, Jeff Bezos, Mark Zuckerberg, Bill Gates khắc biết.

Theo các nhà phong thủy, khuôn mặt được coi là “bản đồ” vận mệnh của một đời người. Một khuôn mặt có thể được coi là sáng rỡ hay tối tăm dựa vào “núi” và “sông” trên đó. Người sở hữu khuôn mặt cân đối có khả năng thu hút nhiều tài lộc và những điều tốt lành tới với cuộc sống của họ. Ngược lại, khuôn mặt không cân đối, nhiều khuyết điểm không mang lại nhiều vận may cho chủ nhân của nó.

Khi đối chiếu với khuôn mặt của 100 tỷ phú giầu nhất thế giới, các nhà phong thủy thấy họ có nhiều điểm tương đồng mang lại tài lộc cho bản thân họ. Năm đặc điểm đó là: mặt chữ điền; trán cao, rộng; mũi tròn, thẳng; môi đầy đặn, hồng hào; cằm tròn, đầy đặn.

Phần lớn các tỷ phú đều có khuôn mặt vuông chữ điền. Theo nhân tướng học, mặt chữ điền tượng trưng cho sự quyết đoán, linh hoạt và ổn định. Hai tỷ phú Warren Buffett và Carlos Slim là ví dụ điển hình nhất.

Trán là biểu tượng của sự may mắn và được coi là “ngọn núi vượng khí đầu tiên” trên khuôn mặt. Trán nhẵn, tròn và rộng mang tới quyền lực, vận may và tiền tài.

Mũi được coi là một trong những “con sông” mang lại tiền tài. Theo phong thủy, mũi lý tưởng là mũi tròn và đầy đặn. Càng tròn và càng đầy đặn thì càng nhiều may mắn. Nếu mũi cân đối, không cong vẹo là mũi ngon lành, rất nhiều may mắn. Đối chiếu với mũi của các tỷ phú, chúng ta thấy có hai kiểu mũi đặc trưng mà nhiều tỷ phú sở hữu. Kiểu thứ nhất là chóp mũi khá lớn so với phần còn lại của mũi. Chóp mũi phải thẳng. Tỷ phú Bill Gates có chiếc mũi quý hóa này. Kiểu thứ hai là cả chóp mũi lẫn cánh mũi đều đầy đặn. Đây là kiểu mũi của người quyết đoán, biết nắm bắt cơ hội. Tỷ phú Warren Buffett có kiểu mũi này.

Miệng là “dòng sông” thứ hai trên khuôn mặt. Người sở hữu đôi môi hồng hào, đầy đặn, căng mọng có khả năng thu hút tài lộc. Môi không khô, nứt nẻ mới tốt vì nếu khô thì “dòng sông” bị khô hạn, không còn sự may mắn.

Cuối cùng là cằm. Đây là “ngọn núi” thứ hai của khuôn mặt. Vẫn theo phong thủy, cằm tròn, đầy đặn và rõ nét là dấu hiệu của sự may mắn và khả năng lãnh đạo. Nơi quý ông, đường viền cằm rõ nét thể hiện cá tính mạnh mẽ. Ông chủ hãng thời trang Zara, Amancio Ortega, và nhà đồng sáng lập Google, Larry Page, đều sở hữu chiếc cằm này.

Theo phong thủy, năm điểm trên là điểm tương đồng của các nhà tỷ phú, những người thành công trong sự nghiệp và sở hữu số tài sản kếch xù. Đó là một combo của thành công và may mắn. Ông nhà thơ Quan Dương có bài thơ “Tóc - Tai - Mũi - Họng” xem ra cùng nhịp bước với cuộc điểm danh các bộ phận trên mặt. Ông nói tới hai nhân tố phong thủy nhắc tới trên “núi và sông” của khuôn mặt là “mũi” và “họng”.

Trèo lên sóng mũi dọc dừa
Sẩy chân chợt té xuống bờ môi em
Té nhằm ngay chỗ trăm năm
Bị em đóng một dấu hằn hẳn hoi
.....
Ngậm trong họng ngụm bồi hồi
Giọt cà phê rớt trúng nơi chứa tình
Ghế bàn đang đứng lặng thinh
Bỗng nhiên đột ngột thình lình tung bay

Thiệt là thiếu sót! Thiếu sót dã man nhất là ông lơ đi cái trán. Nó chình ình ngay trên khuôn mặt, nằm ngay dưới chân tóc. Ông thơ về tóc rồi quẹo qua tai, xong xuôi Nam xuống mũi và họng. Bản đồ sông núi trên mặt bị một lỗ thủng to. Nhưng chả trách ông được, ông đâu có là nhà phong thủy. Ông là một người tình. Người tình trăm năm vì thơ ông là một trời tình. Tình chảy suốt một đời thơ.

Trách ông Quan Dương quên cái trán cũng tội cho nhà thơ vì thực ra cái trán nằm chình ình một vầng nhưng là một bộ phận không được trọng dụng trong thơ văn. Nó trơ trơ như các cụ diễn tả “mặt trơ trán bóng”. Vậy nên những người sở hữu trán dô cũng chán cho phận mình. Chỉ được chút an ủi là ông Thọ trong bộ Tam Đa có chiếc trán dô đặc trưng được tô hình tạc tượng cho bàn dân thiên hạ thỉnh về thờ.

Lang thang trên mạng, tôi đọc được nỗi niềm của một cô gái có cái trán dô. “Con gái đúng là trăm ngàn nỗi khổ, và trán dô hay trán "sân bay" là một trong số đó. Người ta thường nói, con gái trán dô thì thông minh, uyên bác rồi giàu sang đủ kiểu. Nhưng sự thật mất lòng, giỏi giang, lợi lộc ở đâu không biết, chỉ biết là vầng trán "sân bay" ấy làm khổ con gái đủ đường luôn. Kể sơ sơ ra cũng được cả một list nỗi khổ: chưa thấy người đã thấy trán, để kiểu tóc gì cũng thấy vô lý đùng đùng rồi thì trời nóng cũng phải để mái không dám vén lên sợ người ta lóa mắt trước cái trán cao đến quá đáng của mình”.

Cô nàng Thiên Di, sanh năm 1996, là ca sĩ kiêm biên đạo biểu diễn, quê ở Quảng Trị, than khổ than sở về cái trán dô của mình. “Cái trán của mình trông như cái đầu luôn các bạn ạ, chán lắm. Đầu thì có thể không gội chứ mái tóc thì mình không bỏ sót ngày nào. Nhỏ đến giờ, mình chỉ ước trán mình được bình thường như bao người khác để có thể làm đủ kiểu tóc mình thích...Mình đã thử thay đổi rất nhiều kiểu tóc nhưng kết quả mặt vẫn trông tếu lắm, không ai chấp nhận được. Mà chắc da trán mình dày nên bôi đủ thứ thuốc tóc vẫn không mọc lên”. Thời mà Quảng Trị, quê hương của cô nàng Thiên Di, chưa có sân bay, cô bị bạn bè đùa vui là tỉnh chẳng cần xây cất sân bay làm chi vì đã có sẵn rồi!

Buồn làm chi hỡi các nàng trán dô. Phía đối lập thân mến vẫn có người thích và yêu những cô nàng trán sân bay. Như anh chàng Lạc Hi thổ lộ trên mạng. “Trán dô à, dù bướng em vẫn là con gái, nhớ không? Và chắc chắn ở đâu đó đang có người chờ đợi để được ở cạnh em, và yêu em dài lâu, dù có chuyện gì đi nữa. Người đó có thể là anh và cũng có thể là người khác. Nhưng có một điều không thể phủ nhận, là dù em có đang tự ti với mình nhiều như thế nào, thì sẽ luôn có một người yêu em - yêu những gì thuộc về em rất chân thành! Vậy nên, anh yêu em nhiều lắm, "Trán dô" của anh!”

Sau khi thấy ông Quan Dương thờ ơ với cái trán trong thơ của ông, tôi có mail hỏi coi ông có bao giờ héo lánh tới cái trán dô chưa, ông trả lời: “Vụ trán dồ này thì em cùi rồi”.

Ông nhà thơ Luân Hoán không cùi. Thơ lục phủ ngũ tạng ông còn có huống chi thơ về cái trán sờ sờ trước mắt. Ông thảy cho tôi bài “Phiến Trán Cao”.

mắt thanh mày liễu còn tùy
mái thềm thoáng rộng phương phi đỡ đầu
vẻ ngoài trí tuệ ngự đâu?
nhìn qua thoáng biết nông sâu chân tài
tóc mây cùng với tóc mai
tạo thanh tú cõi trang đài sáp ong
như trang sách chép chuyện lòng
thánh thư vô tự mênh mông rạng ngời
thơ nằm trên thạch bích phơi
man man tâm sự ngàn lời vô ngôn
bước đầu ngượng ngịu môi hôn
lên vùng thánh thoát trải hồn thương yêu

trán em bọc lụa mỹ miều
môi tình dán nhẹ bao nhiêu cho đầy
hôn em tinh khiết nơi này
hẹn che chở mãi tháng ngày có nhau

Còn một người trai trẻ, bật mí ngay đó là con trai của nhà văn Hoàng Quân, đã rất thực dụng khi thấy ích lợi của cái trán dô của mẹ: “Nếu mẹ lỡ đâm sầm vào cửa kính, cái mũi vẫn an toàn vì đã có cái trán đỡ hết rồi!”

Song Thao
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
126 câu thơ 7 chữ, xứng đáng gọi bài thơ này là một trường ca. Một trong vài bài thơ dài được phân tích và phê bình nhiều lần bởi một số nhà phê bình chuyên và nhiều nhà bàn thơ tản mạn mang tính nghiệp dư. Hầu hết là khen ngợi sau khi giải thích những ý nghĩ tương đối dễ nắm bắt và những ngụ ý, ẩn dụ quen thuộc tạo nên sự dễ dàng cảm nhận. Đó là bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên. Nếu là một bài thơ có giá trị thật hoặc có giá trị bị hoài nghi thì công việc phân tích phê bình bài thơ đó sẽ được tiếp tục qua nhiều thế hệ, ví dụ như chúng ta tiếp tục tìm hiểu và phê phán “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm, hoặc cao hơn là “Kiều” của Nguyễn Du.
... Tôi cảm thấy may mắn vì tôi vẫn có thể kết nối với tổ tiên tôi qua tiếng nói. Nó giúp tôi vững tin hơn vào giá trị những gì tôi hằng tin tưởng và đam mê theo đuổi. Nó phả sức sống vào một người viết lưu vong, cô đơn, tại một bàn viết lữ thứ, cách xa quê hương cả một đại dương rộng lớn...
Khi viết, cô ở trong cơ thể mình, không thể phản bác lại điều đó. Nhưng làm sao giải thích được đồng thới cô cũng ở một nơi khác? Khi viết, cứ như thể cô đang làm việc từ độ cao sáu inch phía trên và ngay trước đầu mình. Nếu năng lượng viết rơi trở lại cơ thể, mọi thứ viết lách đều dừng lại.
Đời Phi Công là truyện vừa, 54 trang, gồm 9 chương. Theo lời tác giả: “Một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời”. Phượng cô em hàng xóm ông dạy kèm ở Hà Nội từ hồi nhỏ. Đầu lá thư ông chỉ viết “Phượng”, trong thư có thêm “Phượng em”!
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.