Hôm nay,  

Ocean Vuong về Cơn Giận

04/07/202500:00:00(Xem: 3011)
Hình-Ocean-Vương-và-sách-mới
Ocean Vương và cuốn tiểu thuyết mới nhất “The Emperor of Gladness” mới phát hành.
  
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những nát bấy của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.

Khi nỗi đau hoá thành thương yêu, khi sự mệt mỏi của kiếp người — cùng cơn giận nó sinh ra — được gạn thành lòng từ ái, thành sự chăm nom, thì ấy là nghệ thuật. Kẻ nào làm được phép chuyển hoá ấy trong lòng mình, rồi truyền lại phép ấy cho kẻ khác — bằng thơ, bằng tranh, hay chỉ bằng một cử chỉ nhẹ — kẻ đó, với tôi, mới thật là nghệ sĩ.

Không ai nói về phép hoán chuyển ấy đẹp hơn Ocean Vuong — người thi sĩ theo nghĩa rộng nhất của Baldwin.

Trong một cuộc trò chuyện dài với tạp chí The New York Times — gần như một cuộc tự vấn giữa đám đông — Ocean Vuong kể lại khởi đầu tưởng chừng bế tắc: năm mười lăm tuổi, anh từng có ý định mượn súng của bạn để bắn người. Một tên buôn ma tuý cướp mất chiếc xe đạp — phương tiện duy nhất để anh đạp tới trại thuốc lá, nơi anh cùng những di dân khác còng lưng làm việc với giá $9.50 một giờ. Dẫu được nuôi dạy trong tinh thần Phật pháp, ý muốn giết người vẫn manh nha trong đầu.

Rồi Ocean Vuong đọc Baldwin, đọc Annie Dillard tại trường học cộng đồng. Và dần dà, viết lách trở thành cách để hiểu về nỗi đau – hiểu điều gì làm ta tổn thương, vì sao ta làm tổn thương người khác, và làm sao để dừng lại.

 “Tôi lớn lên trong một thế giới nơi cơn giận, sự hung hãn và bạo lực là cách duy nhất để người ta cảm thấy mình đang làm chủ cuộc đời — nhất là khi đời sống vốn ngoài tầm kiểm soát. Nhiều người trong chúng ta đã bị thương, đã mất mát… Vì nỗi đau quá gần, tôi không thể quay lưng. Muốn sống sót, tôi phải nhìn thẳng nó. Vậy nên, hễ thấy bạo lực, tôi buộc phải nhìn kỹ rồi hỏi: ‘Nó từ đâu ra?’ Và thường, nó nảy sinh từ sợ hãi, từ yếu mềm — từ nỗi hoảng sợ khiến ta phải ra tay trước… Tôi hiểu điều ấy, vì cánh cửa dẫn đến bạo lực, với tôi, luôn được dựng bằng đau đớn. Điều thú vị là khi đứng trước cánh cửa ấy, ta tưởng nó quá lớn và không còn lối nào khác. Nhưng chỉ cần lùi một bước… ta nhận ra nó chỉ là cánh cửa trơ trọi giữa cánh đồng. Và rồi ta hiểu: chỉ cần bước qua một bên – cả thế giới đang chờ phía trước.”

“Cả sự nghiệp viết lách của tôi, suy cho cùng, chỉ là một cuộc đi vòng quanh cánh cửa đó — chậm rãi, có chủ đích.”

Trong một buổi nói chuyện khác tại City Arts & Lectures ở San Francisco, Ocean Vuong nói về chỗ đứng của cơn giận — đứa con sinh ra từ khổ đau — trong nghệ thuật. Với anh, phận sự của thi sĩ là nhìn thật kỹ vào đời sống. Và trong đó, tự nó đã ẩn chứa một an ủi dịu dàng: càng nhìn kỹ, ta càng hiểu; càng hiểu mình và người, càng bớt khổ; càng bớt trút nỗi đau của mình lên thế giới; và chỉ khi ấy, ta mới có thể chuyển hóa cơn giận của sự bất lực thành điều gì đó mềm mại hơn — nhưng bền bỉ hơn.

“Khi cơn giận trào lên: ta quăng đồ, la hét (có khi là với người mình thương), ta gục xuống đất (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Nhưng rồi, ta vẫn phải đứng dậy. Vẫn phải cho chó ăn, trả lời thư, vào lớp giảng dạy — nghĩa là ta phải trở lại với sự chăm sóc trong đời sống. Với tôi, chăm sóc chính là cơn giận đã được gạn lọc. Chúng cùng nằm trong một hệ sinh thái. Tôi muốn phá bỏ bức tường ngăn đôi hai điều ấy  — vì người ta cứ tưởng chúng là hai thái cực đối nghịch. Thật ra, chúng nằm kề nhau. Chúng nâng đỡ nhau.”

Ngôn ngữ là chiếc bình chứa tư tưởng và cảm xúc. Cách ta đối đãi với chữ, cũng là cách ta xử thế. Vương nói: “Nhiều nhà văn đã viết ra những điều vĩ đại nhờ năng lượng của cơn thịnh nộ. Nhưng với tôi, chính sự chăm chút mà tôi phải dành cho từng câu chữ mới là liều thuốc làm mình dịu lại. Thật khó giữ nguyên cơn giận khi tay ta đang làm việc với một thứ đòi hỏi sự chăm sóc ân cần. Nếu mỗi từ là một công dân trong quốc gia của chữ nghĩa, thì chúng sống nhờ ta biết suy nghĩ sáng suốt, biết giữ chừng mực, biết dành cho chúng lòng từ ái và phẩm giá. Và tôi sẽ mất niềm tin của chúng, nếu tôi trút cái tôi của mình lên trang giấy.”

Nhưng điểm sáng nhất — và cũng ngược đời nhất — trong suy nghĩ của Vương chính là: cơn giận không cần bị diệt khỏi đời sống nội tâm, nhưng nó không thể là nơi ta dừng lại. Nó phải là tay nắm – để mở ra cánh cửa dẫn đến lòng trắc ẩn.

 “Nếu anh không tỉnh thức, anh sẽ chẳng giận dữ. Nhưng sống trong thân xác người Mỹ hôm nay mà không phẫn nộ trước những gì đang xảy ra, thì có lẽ anh đã chết rồi. Tôi giận chứ - dĩ nhiên. Nhưng tôi phải nói điều này… Tôi không tự hào về nhiều thứ trong đời, nhưng có một điều tôi rất mực tự hào vì chưa một câu, chưa một trang nào tôi viết ra từ cơn giận. Không phải tôi không giận – nhưng khi giận, tôi không còn hữu ích – với tư cách người viết, người nghệ sĩ.”

Một phần cốt lõi trong phận sự của người nghệ sĩ là phải tự mình tìm ra — rồi trung thành — với cái cách mà ta có thể hữu ích nhất cho đời.

Việc ấy đòi hỏi can đảm, nhất là trong một xã hội đầy rẫy những kẻ tự phong cho mình nhiệm vụ “giữ ngọn đuốc đạo đức”– luôn chỉ vào mặt người khác mà nói: “Anh nên viết về cái này”, “Cô phải đấu tranh cho cái kia”, “Tác phẩm tốt là phải nói điều này điều nọ.” (Hãy dè chừng những ai luôn ra lệnh người khác nên dâng hiến gì cho nhân loài.)

Bởi làm nghệ sĩ, suy cho cùng, là một lời thề với đồng loại: rằng dẫu đời có xô lệch, có mài mòn đến đâu, ta vẫn không biến thành ai khác ngoài chính mình.

VB biên dịch
Nguồn: bài “Ocean Vuong on Anger” của Maria Popova — The Marginalian
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.