Hôm nay,  

Ocean Vuong về Cơn Giận

04/07/202500:00:00(Xem: 3216)
Hình-Ocean-Vương-và-sách-mới
Ocean Vương và cuốn tiểu thuyết mới nhất “The Emperor of Gladness” mới phát hành.
  
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những nát bấy của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.

Khi nỗi đau hoá thành thương yêu, khi sự mệt mỏi của kiếp người — cùng cơn giận nó sinh ra — được gạn thành lòng từ ái, thành sự chăm nom, thì ấy là nghệ thuật. Kẻ nào làm được phép chuyển hoá ấy trong lòng mình, rồi truyền lại phép ấy cho kẻ khác — bằng thơ, bằng tranh, hay chỉ bằng một cử chỉ nhẹ — kẻ đó, với tôi, mới thật là nghệ sĩ.

Không ai nói về phép hoán chuyển ấy đẹp hơn Ocean Vuong — người thi sĩ theo nghĩa rộng nhất của Baldwin.

Trong một cuộc trò chuyện dài với tạp chí The New York Times — gần như một cuộc tự vấn giữa đám đông — Ocean Vuong kể lại khởi đầu tưởng chừng bế tắc: năm mười lăm tuổi, anh từng có ý định mượn súng của bạn để bắn người. Một tên buôn ma tuý cướp mất chiếc xe đạp — phương tiện duy nhất để anh đạp tới trại thuốc lá, nơi anh cùng những di dân khác còng lưng làm việc với giá $9.50 một giờ. Dẫu được nuôi dạy trong tinh thần Phật pháp, ý muốn giết người vẫn manh nha trong đầu.

Rồi Ocean Vuong đọc Baldwin, đọc Annie Dillard tại trường học cộng đồng. Và dần dà, viết lách trở thành cách để hiểu về nỗi đau – hiểu điều gì làm ta tổn thương, vì sao ta làm tổn thương người khác, và làm sao để dừng lại.

 “Tôi lớn lên trong một thế giới nơi cơn giận, sự hung hãn và bạo lực là cách duy nhất để người ta cảm thấy mình đang làm chủ cuộc đời — nhất là khi đời sống vốn ngoài tầm kiểm soát. Nhiều người trong chúng ta đã bị thương, đã mất mát… Vì nỗi đau quá gần, tôi không thể quay lưng. Muốn sống sót, tôi phải nhìn thẳng nó. Vậy nên, hễ thấy bạo lực, tôi buộc phải nhìn kỹ rồi hỏi: ‘Nó từ đâu ra?’ Và thường, nó nảy sinh từ sợ hãi, từ yếu mềm — từ nỗi hoảng sợ khiến ta phải ra tay trước… Tôi hiểu điều ấy, vì cánh cửa dẫn đến bạo lực, với tôi, luôn được dựng bằng đau đớn. Điều thú vị là khi đứng trước cánh cửa ấy, ta tưởng nó quá lớn và không còn lối nào khác. Nhưng chỉ cần lùi một bước… ta nhận ra nó chỉ là cánh cửa trơ trọi giữa cánh đồng. Và rồi ta hiểu: chỉ cần bước qua một bên – cả thế giới đang chờ phía trước.”

“Cả sự nghiệp viết lách của tôi, suy cho cùng, chỉ là một cuộc đi vòng quanh cánh cửa đó — chậm rãi, có chủ đích.”

Trong một buổi nói chuyện khác tại City Arts & Lectures ở San Francisco, Ocean Vuong nói về chỗ đứng của cơn giận — đứa con sinh ra từ khổ đau — trong nghệ thuật. Với anh, phận sự của thi sĩ là nhìn thật kỹ vào đời sống. Và trong đó, tự nó đã ẩn chứa một an ủi dịu dàng: càng nhìn kỹ, ta càng hiểu; càng hiểu mình và người, càng bớt khổ; càng bớt trút nỗi đau của mình lên thế giới; và chỉ khi ấy, ta mới có thể chuyển hóa cơn giận của sự bất lực thành điều gì đó mềm mại hơn — nhưng bền bỉ hơn.

“Khi cơn giận trào lên: ta quăng đồ, la hét (có khi là với người mình thương), ta gục xuống đất (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Nhưng rồi, ta vẫn phải đứng dậy. Vẫn phải cho chó ăn, trả lời thư, vào lớp giảng dạy — nghĩa là ta phải trở lại với sự chăm sóc trong đời sống. Với tôi, chăm sóc chính là cơn giận đã được gạn lọc. Chúng cùng nằm trong một hệ sinh thái. Tôi muốn phá bỏ bức tường ngăn đôi hai điều ấy  — vì người ta cứ tưởng chúng là hai thái cực đối nghịch. Thật ra, chúng nằm kề nhau. Chúng nâng đỡ nhau.”

Ngôn ngữ là chiếc bình chứa tư tưởng và cảm xúc. Cách ta đối đãi với chữ, cũng là cách ta xử thế. Vương nói: “Nhiều nhà văn đã viết ra những điều vĩ đại nhờ năng lượng của cơn thịnh nộ. Nhưng với tôi, chính sự chăm chút mà tôi phải dành cho từng câu chữ mới là liều thuốc làm mình dịu lại. Thật khó giữ nguyên cơn giận khi tay ta đang làm việc với một thứ đòi hỏi sự chăm sóc ân cần. Nếu mỗi từ là một công dân trong quốc gia của chữ nghĩa, thì chúng sống nhờ ta biết suy nghĩ sáng suốt, biết giữ chừng mực, biết dành cho chúng lòng từ ái và phẩm giá. Và tôi sẽ mất niềm tin của chúng, nếu tôi trút cái tôi của mình lên trang giấy.”

Nhưng điểm sáng nhất — và cũng ngược đời nhất — trong suy nghĩ của Vương chính là: cơn giận không cần bị diệt khỏi đời sống nội tâm, nhưng nó không thể là nơi ta dừng lại. Nó phải là tay nắm – để mở ra cánh cửa dẫn đến lòng trắc ẩn.

 “Nếu anh không tỉnh thức, anh sẽ chẳng giận dữ. Nhưng sống trong thân xác người Mỹ hôm nay mà không phẫn nộ trước những gì đang xảy ra, thì có lẽ anh đã chết rồi. Tôi giận chứ - dĩ nhiên. Nhưng tôi phải nói điều này… Tôi không tự hào về nhiều thứ trong đời, nhưng có một điều tôi rất mực tự hào vì chưa một câu, chưa một trang nào tôi viết ra từ cơn giận. Không phải tôi không giận – nhưng khi giận, tôi không còn hữu ích – với tư cách người viết, người nghệ sĩ.”

Một phần cốt lõi trong phận sự của người nghệ sĩ là phải tự mình tìm ra — rồi trung thành — với cái cách mà ta có thể hữu ích nhất cho đời.

Việc ấy đòi hỏi can đảm, nhất là trong một xã hội đầy rẫy những kẻ tự phong cho mình nhiệm vụ “giữ ngọn đuốc đạo đức”– luôn chỉ vào mặt người khác mà nói: “Anh nên viết về cái này”, “Cô phải đấu tranh cho cái kia”, “Tác phẩm tốt là phải nói điều này điều nọ.” (Hãy dè chừng những ai luôn ra lệnh người khác nên dâng hiến gì cho nhân loài.)

Bởi làm nghệ sĩ, suy cho cùng, là một lời thề với đồng loại: rằng dẫu đời có xô lệch, có mài mòn đến đâu, ta vẫn không biến thành ai khác ngoài chính mình.

VB biên dịch
Nguồn: bài “Ocean Vuong on Anger” của Maria Popova — The Marginalian
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.