Hôm nay,  

Song ngữ: Walking On The Path With Father As A Protector/Con Đường Con Đi Đó, Có Ba Là “Hộ Pháp”

23/08/202310:11:00(Xem: 2906)
blank

Con đường con đi đó, có ba là “hộ pháp”

 

Thanh Thị

 

 Con sinh ra trong một gia đình thuần nông, lớn lên với cánh đồng lúa xanh mướt, với mùi rơm rạ; con trưởng thành từ những đêm ngủ tại rẫy cùng ba và em để đem lại sự tươi mát, sức sống cho rừng cà phê bạt ngàn vào mùa nắng.

 

          Tuổi thơ của con là những ngày theo mẹ ra đồng, bắt cua làm bạn; là những ngày mò mẫm với mãnh đất đỏ bazan nhặt từng hạt cà phê rơi vãi khi mùa đến. Kí ức tuổi thơ con gắn liền với bạt ngàn bắp và đậu, với cả những măng tre và đêm trăng nghêu ngao mỗi một bài hát: “Trăng rằm sáng lên em đi đến chùa…”.  Và không thể thiếu được ba, với những đòn roi của mẹ khi mãi chơi, quên đường về nhà; để rồi đêm về ba vừa xoa dầu vừa nói : “Tội nghiệp con gái tui”.

 

          Con lớn lên rồi, vội xa gia đình, đi con đường lý tưởng tâm linh mà con đã chọn. Con đã để lại sau lưng cả cánh đồng lúa xanh non, để lại cả rẫy cà phê đang độ đỏ lựng giữa mùa, con bỏ lại cả nắng và gió cao nguyên; hành trang con mang theo chỉ là tình thương và giọt nước mắt của mẹ, là lời nói của ba: “Hay con đừng đi tu nữa, ở nhà ba nuôi!”

 

          Con từng trách ba không thương con, nhưng con biết có người cha nào mà lại không thương con, hơn nữa con lại là đứa con gái duy nhất của ba, là cháu gái duy nhất của dòng họ bên nội. Làm sao ba lại không thương con cho được.

 

          Con từng giận ba, giận lắm; vì ba không thương mẹ, ba làm mẹ khổ, nhưng khi ba nói câu: “Cô tu rồi mà còn giận dai quá, ba biết ba sai, ba đã sửa sai, vậy mà cô còn giận ba, không về nhà thăm ba lấy một lần”, nghe câu ấy, bao nhiêu giận hờn trong con bổng tan biến hết. Con về thăm ba vào một ngày cuối tháng Giêng, cái lạnh tê tái của xứ cao nguyên vẫn chưa tàn, con sung sướng hòa  mình vào mùi của “rừng bông tuyết trắng” đặc trưng của xứ cao nguyên - hoa cà phê, con hạnh phúc đi quanh góc sân thân quen ngày xưa, hái những quả mận trái mùa, ngắm hàng cau kiểng ba vừa trồng năm ngoái. Khi con thấy mình lớn lên đôi chút, ba đã vội già đi. Lúc xưa ba hay gọi con lại, nhờ con lấy hạt lúa kẹp vào cộng tóc bạc, nhổ tóc bạc cho ba. Giờ đây tóc ba đã bạc trắng, hạt lúa nào dám làm nhiệm vụ nhổ tóc nữa, cô bé ngày nào giờ nhìn tóc ba chỉ chực trào nước mắt; sợi đen sợi trắng, nhổ sợi nào đây ba ơi?

 

           Con ở Sài Gòn bao năm, quen mùi khói bụi, quen cái hối hả tấp nập, quen cảnh kẹt xe hàng giờ đồng hồ khi đi học về chiều, cũng quen luôn cảnh ngập nước tới nữa thân người khi mùa mưa đến. Đôi lần con vấp ngã với cái tôi quá lớn, sự chuyển hóa tâm thức trong con chưa trọn vẹn, con bất lực với chính mình; là lúc những kỉ niệm về một thời quá khứ ùa về trong con, nhớ về một nơi mà ở đó con đã được yêu thương hết mực, ở đó có một người với câu nói vẫn in đậm mãi trong tâm trí: “Sao con biết ba không thương con?”

 

            Con đi rồi, em cũng bước theo con, ba như suy sụp hoàn toàn. Ba thương em, ba thương đứa con đã kề cận sớm tối bên ba bao năm nay, ba thương em con nhỏ dại, tính hay lạt lòng, ba sợ em bị  người ta ăn hiếp, ba lo đủ thứ, ba không cho em đi theo con đường như con đang đi. Nhưng rồi em cũng quyết dứt áo ra đi, bỏ lại là nước mắt của ba. Lần đầu tiên ba khóc, khóc cho đứa con trai mà ba thương nhất.

 

            Mùa cà phê năm ấy, không có em, cà phê vẫn chín mọng đúng độ. Ba cười mĩm khi thấy em trông chững chạt với bộ đồ nâu hò, quét từng chiếc lá bồ đề trong sân, lặt từng lá mai. Đó là lần đầu tiên ba vào Sài Gòn, thăm đứa con trai nối dõi tông đường của ba. Thấy con đã lớn, ba yên tâm ra về với tượng Bụt em tặng, như mang cả thế giới của Bụt về nhà.

 

           Đối với ai đó là bốn mùa yêu thương, nhưng với con: ba là cả trời yêu thương. Vì ba đã cho con hình hài, lại cho con cả một tuổi thơ đẹp; và rồi giờ đây, ba vẫn đang tiếp tục hy sinh cho con, là hộ pháp – ông thí chủ ủng hộ hết lòng cho sự tu học của con. Ơn sâu đậm như vậy, khi nào con mới trả hết đây?

 

           Tháng nữa lại về trong quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Vẫn còn đó cánh đồng lúa ngai ngái mùi rơm rạ, vẫn còn rừng cà phê bạt ngàn xanh mướt và những trái chín đầu mùa chen chúc trong nách lá xanh, và vẫn còn đó ba_ người mà con có lỗi nhiều nhất. Ba ơi! Sài Gòn vẫn nắng mưa thất thường với con đường đến trường ngập úng, ngày tháng này, ở nơi ấy có còn lạnh se thắt sáng sớm không ba?

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a28339/con-duong-con-di-do-co-ba-la-ho-phap-

 

.... o ....

 

 

Walking on the Path with Father as a protector

 

Author: Thanh Thị

Translated by Nguyên Giác

 

 

I was born into a farming family and grew up surrounded by lush green rice fields, permeated with the scent of straw. I grew up sleeping in the fields with my father and younger brother, working to bring freshness and vitality to the vast coffee forest during the sunny season.

 

My childhood was the days when I followed my mother to the field to catch crabs to play with as friends, the days of groping with the red basalt soil to pick up every drop of coffee beans when the season came. My childhood memories are filled with endless fields of corn, beans, and bamboo shoots. I remember the moonlit nights when I would sing a single song: "The full moon illuminates, guiding me to the temple..." My father was always there for me, especially when my mother scolded me and I got lost while playing. At night, my father would massage oil onto my whiplash lines and say, "My poor daughter."

 

When I was growing up, I quickly departed from my family to pursue the spiritual path that I had chosen. I left behind a lush green rice field and a coffee field that was vibrant red in the middle of the season, with the sun and wind embracing the plateau. The baggage I brought with me consisted only of my mother's love and tears, and my father's words: "Or don't go to the monastery anymore. Stay home, and I'll take care of you!"

  

I used to wrongly say that my father did not love me, but I now understand that there is no father who does not love his child. Furthermore, I am his only daughter and the sole granddaughter of his paternal family. How could my father not love me?

  

I used to be very angry at my father because he didn't love my mother and made her miserable. However, even though my father said, "You are now a nun, but you are still angry. I know that I was wrong, and I have corrected my mistakes, but you are still angry with your father. You did not go home to visit your father even once." Upon hearing those words, all the anger within me suddenly vanished. I visited my father on the last day of January in the lunar calendar, when the cold of the highlands had not yet ended. I was delighted to immerse myself in the fragrance of the snow-white flowers that are characteristic of the highlands—the coffee flowers. Furthermore, I was happy walking around the corner of the old familiar yard, picking out-of-season plums, and admiring the ornamental areca trees that my father planted last year. When I found myself growing up a little, my father aged quickly. In the past, my father used to beckon me over, asking me to take a single grain of rice and clip it to his gray hair before plucking it out. Now that my father's hair had turned white, no grain of rice could serve the purpose of pulling out his hair anymore. The little girl, who was now gazing at her father's hair, was on the verge of bursting into tears. Black threads next to white ones - which one do I pull, Dad?

  

I have lived in Saigon for many years, surrounded by the smell of smoke and dust. I have become familiar with the hustle and bustle of the city and have adapted to enduring hours of traffic jams on my way to school in the afternoon. Additionally, during the rainy season, I often find myself wading through floodwaters that reach up to half of my body. Sometimes I have stumbled due to my inflated ego. I have come to realize that my journey toward self-improvement is not yet complete, and at times, I have felt powerless and lost within myself. That's when the memories of a pastime came rushing back to me. Remembering a place where I was dearly loved, there was a person who said something that is still imprinted in my mind: "How do you know that your father doesn't love you?"

  

I left, and my younger brother followed me. As a result, my father was completely devastated. My father loved my younger brother, his son, who had been with him every morning and evening for many years. My father adored my younger brother during his youth when he was naive and impulsive. He was concerned that my brother might be targeted by bullies, so he took it upon himself to protect him from any harm. He did not allow my younger brother to follow the same path of Dharma that I am walking. But then my younger brother decided to move forward, leaving our father's tears behind. For the first time, my father cried, and he cried for the son he loved the most.

 

Without my younger brother, the harvest of coffee that year was still abundant. My father smiled when he saw my brother, who looked mature in his brown monk's robe, sweeping every leaf from the bodhi trees in the yard and collecting the leaves from the plum trees. It was the first time my father went to Saigon to visit his son, whom my father had hoped would carry on his clan's legacy. Seeing that his son had grown up, my father left with peace of mind, taking the Buddha statue given to him by my brother. He hoped that the statue would bring the essence of Buddha into our home, encompassing the entire world of enlightenment.

  

For some people, love may come in the form of four seasons, but for me, my father is the whole sky of unconditional love. Because my father gave me life and wonderful childhood and continues to make sacrifices for me. He is a guardian of the Dharma and a dedicated supporter of my studies and spiritual practice. My debt to my father is profound and burdensome; when will I be able to repay it?

  

Another month in the cyclical nature of the universe. There are still rice paddies that smell like straw; there are still vast green coffee groves with the first ripe fruits crowded in the green leaf axils; and there's still my father, the person I feel most guilty towards. Dear Father! Saigon is known for its unpredictable weather, both sunny and rainy days. The road to school is often prone to flooding. Will it still be chilly there in the early morning this month, Father?

  

.... o ....

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
01/09/202508:53:00
J81. Surapana Jātaka -- Câu chuyện về Trưởng lão Sagata và sự nguy hiểm của chất kích thích Tóm tắt: Một vị sư, mặc dù sở hữu thần thông vĩ đại, đã bị hạ gục bởi rượu mạnh. Đức Phật kể lại rằng cả một nhóm tu sĩ khổ hạnh đáng kính trong quá khứ cũng đã mất đi thần thông vì rượu.
29/08/202509:54:00
J71. Varana Jātaka -- Truyện về Trưởng lão Tissa, con trai của một vị điền chủ Tóm tắt: Một vị sư, đáng lẽ phải đang nỗ lực, đã ngủ quên và bị gãy xương đùi sau khi ngã. Đức Phật kể một câu chuyện từ kiếp trước, trong đó chính vị sư này đã ngủ quên trong giờ làm việc, và khi thức dậy, mắt bị thương và mang về một khúc gỗ xanh, khiến các bạn đồng hành không được ăn.
27/08/202514:07:00
J61. Asatamanta Jātaka -- Cuộc sống thế tục rất nguy hiểm. Tóm tắt: Một vị sư trẻ, bị thôi thúc bởi ham muốn sắc dục với một thiếu nữ, đang trên bờ vực từ bỏ cuộc sống tu hành. Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ minh họa cho sự độc ác
25/08/202510:47:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J51. Mahasilava Jātaka -- Vị Vua Không Bao Giờ Bỏ Cuộc Tóm tắt: Một vị sư từ bỏ sự nỗ lực. Để khích lệ ông, Đức Phật kể câu chuyện về một vị vua thời xưa, người đã kiên trì thực hành lòng từ bi ngay cả khi bị đe dọa đến tính mạng—cách ông thoát khỏi việc bị chôn vùi trong nghĩa địa, giải quyết một cuộc tranh chấp giữa hai Dạ Xoa
23/08/202510:43:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J41. Losaka Jātaka -- Chuyện về nhà sư trọn đời thiếu ăn, trừ ngày cuối đời. Tóm tắt: Trưởng lão Xá Lợi Phất gặp một cậu bé nghèo và truyền giới cho cậu. Bất chấp những bất hạnh trong cuộc sống tại gia và sự đấu tranh không ngừng để có đủ thức ăn, cuối cùng cậu đã đạt được quả vị A La Hán. Đức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ, trong đó một người đàn ông đã ngăn cản một vị A La Hán nhận thức ăn. Kết quả là, trong mỗi kiếp sống tiếp theo, vị ấy đều gặp bất hạnh. Tuy nhiên, trong kiếp sống cuối cùng, nhờ thiền định về ba đặc tính, ngài đã đạt được sự giải thoát
22/08/202519:01:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J31. Kulavaka Jātaka -- Truyện về Lòng từ bi và năm giới Tóm tắt: Một vị sư, vì khát nước, đã giết hại chúng sinh bằng cách uống nước chưa lọc, điều này trái với quy định của giáo đoàn. Khi nghe chuyện này, Đức Phật kể một câu chuyện về việc Sakka, Vua của chư Thiên, đã tránh làm hại chúng sinh và nhờ đó đã chiến thắng cuộc chiến giữa chư Thiên và A-tu-la.
21/08/202510:33:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J21. Kurunga Jātaka -- Khi Devadatta là một thợ săn và Bodhisatta là một con linh dương. Tóm tắt: Các nhà sư nói chuyện về Đề Bà Đạt Đa và những cuộc tấn công của ông này nhắm vào Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng Đề Bà Đạt Đa đã hành động tương tự trong những kiếp trước và kể một câu chuyện về một con linh dương khôn ngoan đã thoát khỏi sự hủy diệt của thợ săn nhờ đọc được những dấu hiệu.
19/08/202509:22:00
Bản Sanh: truyện 11 tới 20 / Jataka Tales: Stories 11–20 Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J11. Lakkhana Jātaka -- Con nai may mắn Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa ra đi cùng 500 đệ tử, và Đức Phật đã phái Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến để đưa họ trở về. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về việc trong quá khứ, Đề Bà Đạt Đa, vì bất cẩn, đã đánh mất đàn gia súc mà ông đang chăn dắt, trong khi Xá Lợi Phất đã cứu sống tất cả.
16/08/202511:40:00
Lời Dịch Giả: Để giúp giới trẻ Việt Nam có thể dễ dàng học căn bản Phật pháp, các truyện Bản sanh nơi đây sẽ được rút ngắn và viết lại cho đơn giản trong song ngữ Việt -Anh. Dịch giả hy vọng các truyện Bản sanh song ngữ sẽ giúp cho quý tăng ni, giáo viên, và Phật Tử có thêm một phương tiện mới để hoằng pháp. Nguồn sẽ dựa theo bản tiếng Anh của 547 truyện Jataka trên mạng SuttaCentral
07/08/202507:21:00
Lời dịch giả: Bài viết sau đây ký tên tác giả là Sa Môn Tố Liên, đăng trên Báo Đuốc Tuệ, ấn bản tháng 7 năm 1936. Hòa thượng Thích Tố Liên (1903 – 1977), thế danh Nguyễn Thanh Lai, sinh năm Quí Mão (1903), tại tỉnh Hà Đông. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo. Ngài xuất gia năm 13 tuổi tại chùa Hương Tích, là đệ tử của Tổ Thanh Tích. Với tính cương trực, năng động, mặc dù được chọn làm trưởng pháp tử kế vị chùa Hương Tích, song Ngài quyết tâm du phương tham học nơi các đạo tràng danh tiếng như Đào Xuyên, Tế Xuyên, Bằng Sở, Vĩnh Nghiêm… và đã từng trú trì ở chùa Côn Sơn, Thanh Mai.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.