Hôm nay,  

Song ngữ: Walking On The Path With Father As A Protector/Con Đường Con Đi Đó, Có Ba Là “Hộ Pháp”

23/08/202310:11:00(Xem: 2868)
blank

Con đường con đi đó, có ba là “hộ pháp”

 

Thanh Thị

 

 Con sinh ra trong một gia đình thuần nông, lớn lên với cánh đồng lúa xanh mướt, với mùi rơm rạ; con trưởng thành từ những đêm ngủ tại rẫy cùng ba và em để đem lại sự tươi mát, sức sống cho rừng cà phê bạt ngàn vào mùa nắng.

 

          Tuổi thơ của con là những ngày theo mẹ ra đồng, bắt cua làm bạn; là những ngày mò mẫm với mãnh đất đỏ bazan nhặt từng hạt cà phê rơi vãi khi mùa đến. Kí ức tuổi thơ con gắn liền với bạt ngàn bắp và đậu, với cả những măng tre và đêm trăng nghêu ngao mỗi một bài hát: “Trăng rằm sáng lên em đi đến chùa…”.  Và không thể thiếu được ba, với những đòn roi của mẹ khi mãi chơi, quên đường về nhà; để rồi đêm về ba vừa xoa dầu vừa nói : “Tội nghiệp con gái tui”.

 

          Con lớn lên rồi, vội xa gia đình, đi con đường lý tưởng tâm linh mà con đã chọn. Con đã để lại sau lưng cả cánh đồng lúa xanh non, để lại cả rẫy cà phê đang độ đỏ lựng giữa mùa, con bỏ lại cả nắng và gió cao nguyên; hành trang con mang theo chỉ là tình thương và giọt nước mắt của mẹ, là lời nói của ba: “Hay con đừng đi tu nữa, ở nhà ba nuôi!”

 

          Con từng trách ba không thương con, nhưng con biết có người cha nào mà lại không thương con, hơn nữa con lại là đứa con gái duy nhất của ba, là cháu gái duy nhất của dòng họ bên nội. Làm sao ba lại không thương con cho được.

 

          Con từng giận ba, giận lắm; vì ba không thương mẹ, ba làm mẹ khổ, nhưng khi ba nói câu: “Cô tu rồi mà còn giận dai quá, ba biết ba sai, ba đã sửa sai, vậy mà cô còn giận ba, không về nhà thăm ba lấy một lần”, nghe câu ấy, bao nhiêu giận hờn trong con bổng tan biến hết. Con về thăm ba vào một ngày cuối tháng Giêng, cái lạnh tê tái của xứ cao nguyên vẫn chưa tàn, con sung sướng hòa  mình vào mùi của “rừng bông tuyết trắng” đặc trưng của xứ cao nguyên - hoa cà phê, con hạnh phúc đi quanh góc sân thân quen ngày xưa, hái những quả mận trái mùa, ngắm hàng cau kiểng ba vừa trồng năm ngoái. Khi con thấy mình lớn lên đôi chút, ba đã vội già đi. Lúc xưa ba hay gọi con lại, nhờ con lấy hạt lúa kẹp vào cộng tóc bạc, nhổ tóc bạc cho ba. Giờ đây tóc ba đã bạc trắng, hạt lúa nào dám làm nhiệm vụ nhổ tóc nữa, cô bé ngày nào giờ nhìn tóc ba chỉ chực trào nước mắt; sợi đen sợi trắng, nhổ sợi nào đây ba ơi?

 

           Con ở Sài Gòn bao năm, quen mùi khói bụi, quen cái hối hả tấp nập, quen cảnh kẹt xe hàng giờ đồng hồ khi đi học về chiều, cũng quen luôn cảnh ngập nước tới nữa thân người khi mùa mưa đến. Đôi lần con vấp ngã với cái tôi quá lớn, sự chuyển hóa tâm thức trong con chưa trọn vẹn, con bất lực với chính mình; là lúc những kỉ niệm về một thời quá khứ ùa về trong con, nhớ về một nơi mà ở đó con đã được yêu thương hết mực, ở đó có một người với câu nói vẫn in đậm mãi trong tâm trí: “Sao con biết ba không thương con?”

 

            Con đi rồi, em cũng bước theo con, ba như suy sụp hoàn toàn. Ba thương em, ba thương đứa con đã kề cận sớm tối bên ba bao năm nay, ba thương em con nhỏ dại, tính hay lạt lòng, ba sợ em bị  người ta ăn hiếp, ba lo đủ thứ, ba không cho em đi theo con đường như con đang đi. Nhưng rồi em cũng quyết dứt áo ra đi, bỏ lại là nước mắt của ba. Lần đầu tiên ba khóc, khóc cho đứa con trai mà ba thương nhất.

 

            Mùa cà phê năm ấy, không có em, cà phê vẫn chín mọng đúng độ. Ba cười mĩm khi thấy em trông chững chạt với bộ đồ nâu hò, quét từng chiếc lá bồ đề trong sân, lặt từng lá mai. Đó là lần đầu tiên ba vào Sài Gòn, thăm đứa con trai nối dõi tông đường của ba. Thấy con đã lớn, ba yên tâm ra về với tượng Bụt em tặng, như mang cả thế giới của Bụt về nhà.

 

           Đối với ai đó là bốn mùa yêu thương, nhưng với con: ba là cả trời yêu thương. Vì ba đã cho con hình hài, lại cho con cả một tuổi thơ đẹp; và rồi giờ đây, ba vẫn đang tiếp tục hy sinh cho con, là hộ pháp – ông thí chủ ủng hộ hết lòng cho sự tu học của con. Ơn sâu đậm như vậy, khi nào con mới trả hết đây?

 

           Tháng nữa lại về trong quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Vẫn còn đó cánh đồng lúa ngai ngái mùi rơm rạ, vẫn còn rừng cà phê bạt ngàn xanh mướt và những trái chín đầu mùa chen chúc trong nách lá xanh, và vẫn còn đó ba_ người mà con có lỗi nhiều nhất. Ba ơi! Sài Gòn vẫn nắng mưa thất thường với con đường đến trường ngập úng, ngày tháng này, ở nơi ấy có còn lạnh se thắt sáng sớm không ba?

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a28339/con-duong-con-di-do-co-ba-la-ho-phap-

 

.... o ....

 

 

Walking on the Path with Father as a protector

 

Author: Thanh Thị

Translated by Nguyên Giác

 

 

I was born into a farming family and grew up surrounded by lush green rice fields, permeated with the scent of straw. I grew up sleeping in the fields with my father and younger brother, working to bring freshness and vitality to the vast coffee forest during the sunny season.

 

My childhood was the days when I followed my mother to the field to catch crabs to play with as friends, the days of groping with the red basalt soil to pick up every drop of coffee beans when the season came. My childhood memories are filled with endless fields of corn, beans, and bamboo shoots. I remember the moonlit nights when I would sing a single song: "The full moon illuminates, guiding me to the temple..." My father was always there for me, especially when my mother scolded me and I got lost while playing. At night, my father would massage oil onto my whiplash lines and say, "My poor daughter."

 

When I was growing up, I quickly departed from my family to pursue the spiritual path that I had chosen. I left behind a lush green rice field and a coffee field that was vibrant red in the middle of the season, with the sun and wind embracing the plateau. The baggage I brought with me consisted only of my mother's love and tears, and my father's words: "Or don't go to the monastery anymore. Stay home, and I'll take care of you!"

  

I used to wrongly say that my father did not love me, but I now understand that there is no father who does not love his child. Furthermore, I am his only daughter and the sole granddaughter of his paternal family. How could my father not love me?

  

I used to be very angry at my father because he didn't love my mother and made her miserable. However, even though my father said, "You are now a nun, but you are still angry. I know that I was wrong, and I have corrected my mistakes, but you are still angry with your father. You did not go home to visit your father even once." Upon hearing those words, all the anger within me suddenly vanished. I visited my father on the last day of January in the lunar calendar, when the cold of the highlands had not yet ended. I was delighted to immerse myself in the fragrance of the snow-white flowers that are characteristic of the highlands—the coffee flowers. Furthermore, I was happy walking around the corner of the old familiar yard, picking out-of-season plums, and admiring the ornamental areca trees that my father planted last year. When I found myself growing up a little, my father aged quickly. In the past, my father used to beckon me over, asking me to take a single grain of rice and clip it to his gray hair before plucking it out. Now that my father's hair had turned white, no grain of rice could serve the purpose of pulling out his hair anymore. The little girl, who was now gazing at her father's hair, was on the verge of bursting into tears. Black threads next to white ones - which one do I pull, Dad?

  

I have lived in Saigon for many years, surrounded by the smell of smoke and dust. I have become familiar with the hustle and bustle of the city and have adapted to enduring hours of traffic jams on my way to school in the afternoon. Additionally, during the rainy season, I often find myself wading through floodwaters that reach up to half of my body. Sometimes I have stumbled due to my inflated ego. I have come to realize that my journey toward self-improvement is not yet complete, and at times, I have felt powerless and lost within myself. That's when the memories of a pastime came rushing back to me. Remembering a place where I was dearly loved, there was a person who said something that is still imprinted in my mind: "How do you know that your father doesn't love you?"

  

I left, and my younger brother followed me. As a result, my father was completely devastated. My father loved my younger brother, his son, who had been with him every morning and evening for many years. My father adored my younger brother during his youth when he was naive and impulsive. He was concerned that my brother might be targeted by bullies, so he took it upon himself to protect him from any harm. He did not allow my younger brother to follow the same path of Dharma that I am walking. But then my younger brother decided to move forward, leaving our father's tears behind. For the first time, my father cried, and he cried for the son he loved the most.

 

Without my younger brother, the harvest of coffee that year was still abundant. My father smiled when he saw my brother, who looked mature in his brown monk's robe, sweeping every leaf from the bodhi trees in the yard and collecting the leaves from the plum trees. It was the first time my father went to Saigon to visit his son, whom my father had hoped would carry on his clan's legacy. Seeing that his son had grown up, my father left with peace of mind, taking the Buddha statue given to him by my brother. He hoped that the statue would bring the essence of Buddha into our home, encompassing the entire world of enlightenment.

  

For some people, love may come in the form of four seasons, but for me, my father is the whole sky of unconditional love. Because my father gave me life and wonderful childhood and continues to make sacrifices for me. He is a guardian of the Dharma and a dedicated supporter of my studies and spiritual practice. My debt to my father is profound and burdensome; when will I be able to repay it?

  

Another month in the cyclical nature of the universe. There are still rice paddies that smell like straw; there are still vast green coffee groves with the first ripe fruits crowded in the green leaf axils; and there's still my father, the person I feel most guilty towards. Dear Father! Saigon is known for its unpredictable weather, both sunny and rainy days. The road to school is often prone to flooding. Will it still be chilly there in the early morning this month, Father?

  

.... o ....

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
25/07/202519:19:00
Bài thơ "Chơn Đế" được Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997) sáng tác, in trong Tạp chí Liên Hoa, số 9, tháng 9 năm Ất Mùi, tức là năm 1955. Trong phần I, tác giả giải thích phần cốt tủy trong bài Bát Nhã Tâm Kinh. Chỉ cần riêng hiểu phần I để tu, chỉ cần thường trực thấy diệu lý của Sắc và Không là người tu cũng đủ tư lương để giải thoát. Chỉ cần thấy rằng Sắc -- tức là, những cái được thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, tư lường -- thực sự là Không, là vô ngã, là không tự tánh
23/07/202510:28:00
Lời dịch giả: Bài viết nhan đề "Cần Phải Đi Xa Hơn Hình Thức” đăng trên Liên Hoa Nguyệt San, số 2, năm Mậu Tuất (1958), ký tên Liên Hoa, nói về chuyện xảy ra gần bảy thập niên trước, mà bây giờ chúng ta vẫn có thể gặp nơi này hay nơi kia tại Việt Nam. Liên Hoa Nguyệt San là tiếng nói chính thức của Giáo Hội Tăng Già Trung Phần. Bài này được dịch để hiểu về phong trào chấn hưng Phật giáo thời kỳ đó. Bài viết như sau.
21/07/202507:41:00
Lời dịch giả: Bài viết "Chơn Tâm, Vọng Tâm" được Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997) viết, in trong Tạp chí Liên Hoa, số 9, tháng 9 năm Ất Mùi, tức là năm 1955. Tạp chí Liên Hoa thành lập năm 1955, với Thượng toạ Thích Đôn Hậu trú trì chùa Linh Mụ ở Huế làm chủ nhiệm, Thượng toạ Thích Đức Tâm làm chủ bút, và Ni sư Thích Nữ Diệu Không làm quản lý. Trong bài này, Ni sư ký tên tác giả là Diệu Không.
17/07/202512:34:00
Lời dịch giả: Bài viết "Bi Và Ái" được Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997) viết, in trong Tạp chí Liên Hoa, số 3, ấn hành cuối tháng 8/1955. Tạp chí Liên Hoa thành lập năm 1955, với Thượng toạ Thích Đôn Hậu trú trì chùa Linh Mụ ở Huế làm chủ nhiệm, Thượng toạ Thích Đức Tâm làm chủ bút, và Ni sư Thích Nữ Diệu Không làm quản lý. Trong bài này, Ni sư ký tên tác giả là Thích Diệu Không. Ni trưởng là dịch giả nhiều kinh và luận, cũng là một nhà thơ xuất sắc.
29/05/202509:12:00
Bài này có nhan đề Vô Sanh, trong tạp chí Viên Âm Nguyệt San, số 22, ấn bản tháng 7 và 8 năm 1936, dài sáu trang, in trên các trang 30-35. Tác giả ghi là Viên Âm, có lẽ là Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bài viết dựa vào lý luận Trung Quán của ngài Long Thọ (150-250) để thấy tất cả các pháp, thí dụ như cái bàn gỗ, qua ánh sáng của Không, Giả, Trung. Tất cả lý luận trong bài là một chuỗi công cụ giải thoát tuyệt vời, và không hề xa lời dạy của Đức Phật. Toàn văn được scan lại từ bản PDF, và dịch ra Anh văn để Phật tử thế hệ trẻ tiện dụng
23/05/202510:06:00
Bài này trích từ Viên Âm Nguyệt San, số 21, tháng 5 và 6, năm 1936. Tác giả là Viên Âm, được suy đoán có lẽ là Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bài này kể chuyện một viên quan đời Vua Tự Đức, chỉ ra tánh vô thường và tánh vô ngã trong kiếp người. Đối với nhà Phật, hễ nhận ra tánh vô thường thường trực nơi thân tâm là đủ để giải thoát, không cần tu pháp gì khác nữa. Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ cùng từng có bài thơ, nói rằng muốn vượt qua dòng sông sinh tử để tới bờ giải thoát, thì hãy xem thân tâm như con trâu bùn qua sông, tan vào dòng sông.
17/05/202510:14:00
Trên báo Viên Âm, số 15, ấn bản tháng 5 và tháng 6 năm 1935, có câu hỏi của ông T.T. rằng trong pháp tu Tịnh Độ, ông nên niệm A Di Đà hay nên niệm A Mi Ta Ba. Bài trả lời ký tên Viên Âm, được suy đoán là cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bản văn nơi đây được scan lại từ bản PDF và dịch ra Anh văn để tiện cho thế hệ sau nghiên cứu.
04/05/202511:50:00
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý; vì nếu chỉ hiểu lý mà không tu thì có khác chi người nói ăn mà không ăn, biết bao giờ cho hết đói. Trong các phép tu hành, phép niệm Phật (Tịnh Độ-Tôn) là một phép tuyệt-diệu, đã dễ học dễ tu, lại mau có hiệu-quả. Nghĩa lý của phép niệm Phật tuy nhiều, nhưng không ngoài sáu chữ: Nam mô A- Di-Đà Phật.
04/05/202511:32:00
Lời dịch giả: Bài này của ngài Trúc Lâm Mật Nguyện, được suy đoán là của cố Hòa thượng Thích Mật Nguyện (1911-1972). Bài này in trên Viên Âm Nguyệt San số 11, ấn bản tháng 10/1934. Bài này được scan lại và dịch ra tiếng Anh để làm tài liệu cho những người nghiên cứu về Phật học đầu thế kỷ 20.
07/04/202521:19:00
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.