Hôm nay,  

Song ngữ: Đức Phật dạy: Thường trực thấy vô ngã sẽ giải thoát

13/12/202407:38:00(Xem: 3530)

Đức Phật dạy: Thường trực thấy vô ngã sẽ giải thoát
 

Tuệ Trung Thượng Sỹ, một Thiền sư lớn của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng nói rằng muốn vượt qua dòng sông sinh từ cần tự nhìn thấy thân và tâm mình như một con trâu bùn, vì khi trâu bùn bước xuống sông là sẽ tự tan rã. Nghĩa là, luôn luôn tự thấy mình là vô ngã, và đó là cách vượt sông sinh tử. Đó cũng là một cách mô tả lời dạy của Đức Phật.
 

Trong Kinh SN 12.70 Sutta và Kinh SA 347 Sutra, Đức Phật dạy rằng những người thường trực thấy thân và tâm là vô ngã sẽ giải thoát, sẽ trở thành A la hán, mà không cần tu luyện bất kỳ thần thông nào phức tạp.
 

Hai kinh này kể chuyện một người ngoại đạo tên là Susima xuất gia, vào trong Tăng đoàn của Đức Phật. Khoảng nửa tháng sau, Susima nhìn thấy nhiều vị sư tới trước Đức Phật, bạch rằng họ đã chứng quả A la hán, rằng họ đã làm xong những việc nên làm. Đức Phật chấp nhận rằng các vị sư đó đã chứng quả A la hán, đã giải thoát.
 

Sau đó, Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã chứng thần thông, đã đi xuyên ngang qua vách, qua núi, đã đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, hay đã ngồi kiết-già bay trên hư không như chim bay. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã chứng được thiên nhĩ, có thể nghe xa ngàn dặm. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã chứng được tha tâm thông, biết được tâm của các chúng sanh khác, người khác. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã nhớ được nhiều đời quá khứ. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã đắc tứ thiền, hay tam thiền, hay nhị thiền, hay sơ thiền. Các vị sư đó nói rằng họ không có các định lực như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng vì sao các sư tự biết đã chứng quả A la hán. Các sư nói rằng các sư đã chứng được tuệ giải thoát.
 

Sau đó Susima tới bạch với Đức Phật, được Đức Phật giải thích là: Đúng là các vi sư kia đã chứng quả A la hán nhờ có tuệ giải thoát, họ có hiểu biết về các pháp vận hành trong Duyên khởi, sau là trí tuệ về Niết-bàn.
 

Đức Phật nói rằng trước tiên phải thấy rằng sắc là vô thường. Tức là tất cả những gì được thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, tư lường đều là vô thường. Vì chúng là vô thường, nên sẽ khổ, chịu sự biến hoại, nên cần phải được quán như chơn như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.”
 

Tương tự, với thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế, cần phải được quán như chơn như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
 

Khi người tu thấy như thế, sẽ nhàm chán, và rồi ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát.”
 

Kinh Phật có kể về một cách để thường trực quán như chơn rằng: Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.

Đức Phật kể về ẩn dụ tiếng đàn. Có một vị vua một hôm nghe tiếng đàn hay chưa từng có, nên yêu cầu các quan đem tiếng đàn tới. Các quan dâng lên vua cây đàn, nói rằng tiếng đàn từ cây đàn, nhưng là xuất phát từ hàng trăm duyên khác nhau, từ dây đàn, gỗ làm cán đàn và thùng đàn, từ người đàn giỏi từng học nhiều năm. Nếu thiếu một duyên, thì không thể có tiếng đàn. Thêm nữa, tiếng đàn chuyển biến từng khoảnh khắc, vừa sinh ra là đã diệt mất, nên không thể nắm giữ lấy tiếng đàn, vì tất cả những cái được nghe đều là vô ngã.
 

Sau khi kể về ẩn dụ tiếng đàn, Đức Phật nói rằng người tu cần phải quán sát sắc, thọ, tưởng, hành và thức không hề có cái gì là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi.
 

Video dài 4:36 phút:


https://youtu.be/KWv8cMwkMUI 

.
.... o ....


Buddha taught that the continuous recognition of non-self leads to liberation.
 

Tuệ Trung Thượng Sỹ, a prominent Vietnamese Zen master of the 13th century, once stated that to traverse the river of birth and death, one must perceive one’s body and mind as a mud buffalo. When a mud buffalo enters the river, it disintegrates. In other words, one should always view oneself as non-self; this perspective is the key to crossing the river of birth and death. This concept also serves as a fundamental description of the Buddha’s teachings.
 

In the SN 12.70 Sutta and the SA 347 Sutra, the Buddha taught that those who consistently perceive the body and mind as non-self will attain liberation and become Arahants, without the need to develop any complex supernatural powers.
 

These two suttas recount the story of a non-Buddhist named Susima who joined the Buddha's Sangha. Approximately two weeks later, Susima observed many monks approaching the Buddha, reporting that they had achieved Arahantship and fulfilled their spiritual obligations. The Buddha acknowledged that these monks had indeed attained Arahantship and were liberated.
 

Then Susima asked the monks whether they had attained any supernatural powers, passed through walls and mountains, walked on water without sinking as if on land, or sat cross-legged and flown in the air like birds. The monks replied that they possessed no such supernatural abilities.
 

Susima inquired of the monks whether they had achieved divine hearing, the ability to hear from a thousand miles away. The monks replied that they did not possess such supernatural abilities.
 

Susima inquired of the monks whether they had achieved telepathy, the ability to read the minds of other beings and individuals. The monks responded that they did not possess such supernatural powers.
 

Susima asked the monks if they remembered many past lives. The monks replied that they did not possess such supernatural abilities.
 

Susima inquired of the monks whether they had achieved the fourth jhana, the third jhana, the second jhana, or the first jhana. The monks replied that they did not possess such powers of concentration.
 

Susima asked the monks how they knew they had attained Arahantship. The monks replied that they had achieved liberating wisdom.
 

Then Susima went to inform the Buddha, who explained: It is true that those monks attained the fruit of Arhatship through liberating wisdom. First, they gained an understanding of the dharmas involved in Dependent Origination, and subsequently, they acquired wisdom about Nirvana.
 

The Buddha taught that one must first recognize the impermanence of form. In other words, everything that is seen, heard, smelled, tasted, touched, or thought about is transient. Because it is impermanent, it leads to suffering and is subject to change; therefore, it must be contemplated as it truly is: “This is not mine, this I am not, this is not my self.”
 

Similarly, feelings, perceptions, mental formations, and consciousness should be contemplated as they truly are: “This is not mine, this I am not, this is not my self.”
 

When the practitioner observes this, he becomes disinterested and subsequently relinquishes desire. By letting go of desire, he attains liberation. In this state of liberation, wisdom emerges, accompanied by the realization: “I am liberated.”
 

The Buddhist scriptures describe a method for continually contemplating the truth: This is not mine, this I am not, this is not my self.
 

The Buddha once shared the parable of the sound of a lute. One day, a king heard a beautiful melody emanating from a lute and requested his officials to bring him the source of that sound. The officials presented the king with a lute, asserting that the sound originated from the instrument itself. However, the sound was actually the result of numerous factors: the strings, the wood used to craft the lute's body and neck, and the skill of the lute player, who had dedicated many years to mastering the instrument. If any one of these elements were absent, the sound of the lute would not exist. Moreover, the sound of the lute changes with each moment; as soon as it is produced, it fades away, making it impossible to grasp or hold onto the sound.
 

After sharing the metaphor of the lute, the Buddha emphasized that practitioners must recognize that form, feeling, perception, mental formations, and consciousness do not possess anything that can be identified as me, mine, or my self.
 

Video 5:44 minutes long:


https://youtu.be/oLqL8jayaRk
.
Video made by Nguyên Giác

Reference:
SN 12.70 Sutta:
- Thầy Minh Châu: https://suttacentral.net/sn12.70/vi/minh_chau
- Sujato Bhikkhu: https://suttacentral.net/sn12.70/en/sujato
- Bodhi Bhikkhu: https://suttacentral.net/sn12.70/en/bodhi
SA 347 Sutra:
- Thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa347/vi/tue_sy-thang
SN 35.246 Sutta:
- Thầy Minh Châu: https://suttacentral.net/sn35.246/vi/minh_chau
SA 1169 Sutra:
- Thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa1169/vi/tue_sy-thang
.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
08/08/202407:43:00
Bài này trích từ buổi nói chuyện của ngài Jiddu Krishnamurti ngày 23/8/1948 tại Ấn Độ. Krishnamurti nói rằng ngài từng một lần chữa bệnh cho một người bằng phép lạ, nhưng sau đó thì thôi. Nội dung bài nói chuyện: hãy ly tham, không đòi hỏi bất cứ gì trong đời, không để bị trói buộc bởi bất cứ những gì, hãy nhận biết mọi chuyện như nó xảy ra và không khởi tâm bóp méo, hãy nhìn thấy thân tâm đang đổi mới liên tục trong trận gió vô thường không ngừng chảy xiết. Và đó chính là phép lạ.
09/07/202423:10:00
That time we met again was strange. It seems like meeting and parting are predestined. It was around 1999 or 2000, when many people had millennium fever, as if the world was about to end or the sky was about to collapse. I attended the Dalai Lama's teachings in Pasadena, Los Angeles County, and met her again./ Lần đó gặp lại cũng lạ. Có vẻ như những gì gặp gỡ và chia tay đều là tiền định. Lúc đó là khoảng năm 1999, hay 2000; nhiều người lên cơn sốt thiên niên kỷ gì đó, kiểu như sắp tận thế hay trời long đất lở gì đó. Tôi dự buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thành phố Pasadena, thuộc quận Los Angeles, và gặp lại cô nàng.
11/05/202423:04:00
Anh ngồi ngó rừng hoa lá nửa đêm em tới như trăng lặng lẽ đất trời ngập sáng thở vào hồn anh dịu dàng // I sat, looking across the sky at flowers and leaves. You walked quietly into the moonlight, filling the sky with light, and gently breathed into my soul.
22/02/202407:46:00
Bài viết này của Bhikkhu Bodhi, vị Thầy đã dịch Tam Tạng Pali sang tiếng Anh, đăng trên trang Buddhists Respond (Người Phật tử đáp ứng) có địa chỉ ở https://www.buddhistsrespond.org/ một trang web tự ghi nhận là có mục đích hỗ trợ các phản ứng khôn ngoan và từ bi của người Phật tử đối với các sự kiện hiện tại. Tác giả Bhikkhu Bodhi cũng là một nhà hoạt động, người sáng lập và chủ tịch của Hội Buddhist Global Relief (Hội Phật giáo Cứu trợ Toàn cầu), một tổ chức từ thiện chuyên giúp đỡ các cộng đồng trên khắp thế giới đang bị nạn đói và suy dinh dưỡng kinh niên. Bản thân của Bhikkhu Bodhi còn có một vị trí đặc biệt khi nhìn về cuộc chiến giữa Israel và quân Hamas: ngài Bodhi là nhà sư Mỹ gốc Do Thái cao cấp nhất.
31/12/202306:32:00
Theo một kết quả nghiên cứu của Viện Đại học University of Wisconsin, Madison ở Hoa Kỳ, người lớn ngồi thiền hoặc tập các bài tập thể dục thông thường như đi bộ nhanh, trong hai tháng sẽ ít bị bệnh cảm lạnh hơn so với những người không làm gì. Nghiên cứu phát hiện ra rằng những người ngồi thiền có số ngày nghỉ việc do bệnh ít hơn 76% trong khoảng thời gian 9 tháng từ tháng 9 đến tháng 5 so với những người không ngồi thiền. Những người chỉ tập thể dục nghỉ ít hơn 48% trong giai đoạn này. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đó đã cho thấy thiền chánh niệm có thể làm giảm căng thẳng thần kinh trong cuộc sống, làm cho tâm được an lạc và tăng cường khả năng của hệ miễn dịch.
22/12/202317:31:00
Trong các thuật ngữ của đạo Phật, có lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệt rõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai thuật ngữ "Chân Đế" và "Tục Đế". Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, để chúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thế giới Tục đế, đến thế giới Chân đế.
20/12/202317:02:00
Có một số Phật tử cho rằng khi con người đạt tới giải thoát là lúc họ trở vể với bản thể chân tâm tuyệt đối, hoà đồng vào bản thể của vũ trụ vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu. Nhận định trên đã được dẫn xuất từ nguồn tư tưởng Bà La Môn và từ những nhận xét sai lầm về Phật giáo. Cho nên, để có một cái nhìn rõ ràng hơn về đạo giải thoát của đức Phật, chúng tôi viết bài tiểu luận này nhằm nêu lên sự khác biệt giữa quan niệm giải thoát của Phật giáo và của Bà La Môn giáo. Bài viết được dựa phần lớn vào những tư liệu hiện có, vào kinh điển của Phật giáo và Bà La Môn giáo đang lưu truyền.
15/12/202319:39:00
Thuở còn nhỏ ở làng quê đất Bắc, chúng tôi không biết rõ là thầy ăn chay hay ăn mặn, có vợ, có con hay sống một mình. Chỉ biết thầy trông nom ngôi chùa và thỉnh thoảng chúng tôi thấy thầy đến nhà người dân cúng kiếng, tụng kinh gõ mõ. Lũ trẻ trong làng thường gọi thầy là Thầy Chùa vì thấy thầy ở trong chùa và trông coi ngôi chùa của làng, thấy thầy thỉnh thoảng đi cúng đám, nên có đứa gọi thầy là Thầy Cúng. Cho đến nay nhiều người vẫn lẫn lộn ba vị, Thầy Tu, Thầy Chùa và Thầy Cúng như chúng tôi hồi còn nhỏ không biết phân biệt, cứ nghĩ ba người cũng như một. Nay được biết thêm các từ Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng, Đạo Sư và Thiền Sư nữa. Vậy những chức danh này có gì khác nhau? Nếu muốn nói đến các vị sư ở chùa thì nên dùng từ nào cho chính xác?
13/12/202314:57:00
Nếu toàn thể nhân loại kể từ đời thượng cổ cho đến ngày nay đều có cùng một thói quen sống "ai sao tôi vậy" hoặc "xưa sao nay vậy" thì giờ này chúng ta vẫn còn phải vác rìu bằng đá để đi săn thú đem về ăn sống nuốt tươi, chứ không thể có được nền văn minh điện toán như ngày nay.
07/12/202309:33:00
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường giải thoát. Giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi. Tuy cùng đi trên một con đường, nhưng vì con người có nhiều tâm tính, trình độ, khả năng và căn cơ khác nhau, lại vì tùy hoàn cảnh, tùy phong tục, tập quán, luật lệ thay đổi theo từng địa phương và tùy thời điểm, cho nên Đức Phật đã đưa ra vô số phương tiện khác nhau


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.