Hôm nay,  

Ma

25/08/202300:00:00(Xem: 3512)

Logo cho fb  
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
   
Trong cơn đại dịch Covid-19 đã hoành hành, nhờ vaccine, căn bệnh được kiểm soát tốt, tuy vậy tất cả chúng ta đều ít nhiều bị tổn thương. Người thì mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất con, mất họ hàng, bè bạn… Kẻ bị áo cơm quật đập tơi tả. Kẻ khác công ăn việc làm lụn bại... Đều là những chuyện buồn.
   
Đã buồn lại phải nghe điều bất ưng, khác nào lấy dao nhọn khoét thêm vào vết thương còn tươm máu?
   
Cho nên tôi sẽ không đề cập đến chuyện buồn làm chi, có điều chuyện tôi sắp kể hẳn nhiều người khó tính sẽ bảo tôi thuộc thành phần vô đạo đức.
   
Đành chịu, không thể vừa lòng tất cả!
   
Ngày ấy tôi mới ngoài hai mươi, không đẹp trai, tài hoa và chữ nghĩa bề bề như một số người tôi may mắn quen biết. Được cái tôi không ghét bỏ ai bao giờ, nhất là với phái nữ tôi luôn nhường nhịn và… dễ thương (vì thế bạn bè vẫn cho rằng tôi thuộc trường phái dại gái!) Xét chung, tôi vô hại. Tuy vậy, khách quan nhận xét, tôi cũng có nhược điểm là hơi nóng tính. Phàm những người nóng tính thường phổi bò, ruột để ngoài da, khi giận sùng sục tựa nước sôi, song nguội ngay như bị ném vào phòng lạnh! Nhược điểm này xét mặt nào đó, lại là ưu điểm, loại người như tôi chắc chắn không mưu mô quỉ kế, khỏi mất công đề phòng. Có lẽ nhờ thế phái nữ, vốn rất đa nghi song dễ mềm lòng, thường dành cho tôi nhiều thiện cảm.
   
Và họ cụ thể thiện cảm ấy bằng cách cho không biếu không những quả tình lãng mạn.
   
Chuyện tôi sắp kể, có phần… liêu trai chí dị. Tuy nhiên biết đâu sẽ giúp mọi người một phút quên đi bao nhiêu bất ưng trong cõi nhân sinh lắm đa đoan này.
   
Sau nhiều tuần ra sức tán tỉnh, cuối cùng tôi thuyết phục, đưa được một nàng xuống miệt Thủ Thiêm. Mặt ngoài: thư giãn, tạm tách lìa khỏi cảnh xô bồ và khói xe, tiếng động của thành phố; Mặt trong: (chỉ mình tôi biết) tạo điều kiện để thừa cơ… nước đục thả câu! Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn chưa quên cảnh đắm đuối dưới bóng sầu riêng, cạnh dòng kinh nở đầy hoa súng. Thơ mộng và… hiện thực như phim diễm tình Romeo and Juliet cộng mùi tình dục hiện sinh kiểu  Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh.
   

Tối, tôi đưa nàng về. Nhà nàng ở ven đô, nếu đi đường lớn mất chừng sáu mươi phút, nếu sử dụng đường tắt chỉ ngót nửa giờ, khổ nỗi đó là một hương lộ đầy ổ gà, băng ngang bãi tha ma hoang vắng, hầu như ít ai dám đi vào ban đêm. Để tỏ ra ta đây thừa đởm lược, tôi đề nghị,

“Mình về đường tắt nhé?”
Nàng la bai bải, “Đừng anh ơi, em sợ.”
Tôi hùng hổ, “Có anh đây, sợ gì.”
Nàng bấu mạnh vai tôi, “Nghe nói nghĩa địa này nhiều ma lắm.”
“Ma với quỉ, nhảm nhí.”

Mặc cho em cản ngăn, tôi vẫn ngoan cố rẽ vào.

Đường tối, bụi bờ nhấp nhô, mồ mả ngổn ngang cao thấp vô trật tự. Những bụi xương rồng tựa những bàn tay vói lên từ lòng đất. Khóm lau bông trắng ngả nghiêng trong gió trông giống những mái đầu bạc vật vã khóc than. Hàng vạn đốm lân tinh lượn lờ trên những phần mộ. Nàng ôm cứng tôi, lạc giọng, “Anh ơi… em sợ.”
   
Tôi không trả lời, chăm chú điều khiển chiếc honda vượt qua khoảng đường xấu. Xe vào đến trung tâm bãi tha ma thì trời chuyển mưa, mây đen ùn ùn phủ kín bầu trời, sấm chớp đì đùng. Thoáng chốc mưa ập xuống, xối xả. Nàng nói như muốn khóc, “Chết rồi anh ơi, làm sao?” Tôi đảo mắt, một nhà mồ lớn xây kiên cố bằng bê-tông có mái che rộng, chỉ cách lộ non mười mét, tuy bề thế nhưng hình như không người chăm sóc, lau sậy um tùm. Vừa cho xe tấp vào, tôi vừa nói, “Mình trú dưới mái che này.”
   
Nàng mếu máo, “Em sợ!”
Tôi trấn an, “Đã bảo có anh, không việc gì phải sợ.”
Tôi dìu em ngồi xuống gờ xi-măng cạnh mộ bia, nơi khô ráo và khuất gió. Em ôm chặt tôi, luôn mồm, “Em sợ…”

Tôi, ngày ấy, rất vô thần. Không tin những gì nếu không sờ được bằng tay, nhìn thấy tận mắt. Cũng có nghĩa chuyện ma quỉ, với tôi, chỉ là sản phẩm tưởng tượng, nhằm hù dọa trẻ con và bọn yếu bóng vía, nên thay vì sợ tôi lại cảm thấy máu chảy loạn trong huyết quản khi được nàng ôm chặt. Da thịt nàng mát lạnh, mùi thơm con gái xộc vào mũi. Tôi ngất ngư, con lợn lòng vùng lên đòi quyền tự trị. Hai bàn tay tôi chu du khắp mọi  ngõ nghách trên body nàng.

“Đừng anh, em sợ!”
Điệp khúc vẫn không ngừng mãi đến khi tôi vật em ngã ngửa trên tấm “đanh” đậy mộ phần, nàng lắp bắp, “Đừng… anh…”
Mặc. Nàng co giật tựa động kinh, tiếng kêu thấp dần cường độ. Tôi trườn lên, thì thầm, “Anh yêu nhé?”
Nàng ậm ự, lặp lại điệp khúc, “Thôi anh… em sợ…”
Tuy vậy, nàng không chống cự quyết liệt, tôi chiếm cứ được mục tiêu tương đối dễ.
Đến lúc trong vô thức, nàng ôm siết, nhưng thay vì “anh ơi, em sợ.” Bây giờ nàng bỏ bớt hai từ “em sợ”, chỉ giữ hai từ “anh ơi… anh ơi…” Tôi nói như máy, “Anh yêu em.”

Tiếng mưa rì rào trên mái nhà mồ, tiếng gió gào rú, và những đốm lửa lập lòe ngoài nhấp nhô mồ mả khuất lấp giữa cỏ cây, lau sậy, tiếng sét đì đùng lóe sáng trên bầu trời vần vũ mây đen tạo thành một âm thanh, hoạt cảnh vừa ma quái vừa quyến rũ. Đến một lúc huyết quản rần rật dưới da, và rồi… tôi thốt kêu, “Cưng ơi…”

Nàng ôm tôi chặt hơn, hổn hển, “Anh… anh… anh… anh…”

Một lúc sau, cơn “địa chấn” dần hạ, nàng bừng tỉnh, nhẹ đẩy tôi ra, ngồi dậy, nhìn quanh hoạt cảnh rất liêu trai chí dị, vẻ sợ hãi, “Tội lỗi quá anh ơi!”

Tôi nhớ chân dung người đàn ông quá cố có nụ cười hiền đã nhìn thấy qua tia sấm chớp khi đang hành sự, lòng hơi lung lạc, tôi thầm khấn, “Mong ông linh thiêng thứ lỗi, ông biết mà, làm sao đừng được.”

Một con chồn từ đám lau sậy phóng ra, hai con mắt rực sáng tựa hai đốm lân tinh nhìn chúng tôi hồi lâu rồi lủi nhanh, mất hút phía sau bia mộ. Nàng lại ôm tôi, “Anh ơi… em sợ…”
 
– Khánh Trường

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
Tình hình thế giới hình như đang rối lung tung, náo loạn như từ khi tổng thống Mỹ nhậm chức nhiệm kỳ II. Ông ở ngôi mới được hơn 100 ngày chút xíu, mà nhiều rắc rối quá, đối ngoại thì như mỗi ngày ông đưa ra những quyết định trừng phạt thế giới về kinh tế và thương mại bằng cách tăng thuế vào các hàng hóa của bất kỳ quốc gia nào nhập khẩu và Hoa Kỳ từ 10 đế 50% và hơn thế nữa.
Thông thường, sau một ngày dài bận rộn, ai cũng nghĩ rằng đến khi đặt lưng xuống giường thì cơ thể sẽ mệt mỏi rã rời. Thế nhưng đôi khi, điều ngược lại lại xảy ra: thay vì cảm thấy mệt và buồn ngủ, chúng ta lại bất ngờ cảm thấy tỉnh như sáo, tràn đầy năng lượng, trằn trọc mãi chẳng thể nào chợp mắt.
Bộ đồ lòng dĩ nhiên gồm có…lòng. Nhưng lòng lại chia ra nhiều loại: lòng non, phèo, lòng già, khố linh. Khố linh là phần cuối của lòng già, ăn rất giòn, béo vì có lớp mỡ bên trong. Đó là điểm cộng của khố linh. Điểm trừ là khố linh rất hôi, có lẽ đây là lý do có chữ “khố” nằm vùng ở đây. Bàn ngang một chút: lòng còn chỉ “lòng dạ”, một từ không dính dáng chi tới chuyện ngon hay dở. Nghĩa bóng của “lòng dạ” chỉ liên quan tới con người, còn bò heo gà thì chỉ có một nghĩa. Ngoài lòng, bộ đồ lòng còn bao gồm tim, gan, bao tử, dồi trường. Dồi trường chỉ có ở heo nái. Tùy theo tuổi heo, dồi trường to hay nhỏ. Loại ngon nhất là dồi trường của heo nái đẻ hai hoặc ba lứa. Nhưng ít thực khách biết chuyện này nên cứ đòi dồi trường to, vừa đắt vừa không ngon.
Hãy tưởng tượng quý vị đang đứng ngay cạnh xác tàu Titanic huyền thoại, chậm rãi dạo quanh một vòng và chiêm ngưỡng kích thước đồ sộ của con tàu. Quý vị có thể ghé vào phòng chứa lò hơi (boiler rooms), ngắm nghía các bảng điều khiển, thậm chí nhìn thấy số ID 401 của tàu được khắc trên cánh chân vịt. Những dải nhũ xốp gỉ sét (rusticles) lặng lẽ bám quanh thân tàu. Rải rác trên mặt đất là những mảnh kim loại đã biến dạng và đồ đạc cá nhân của những nạn nhân xấu số trong thảm kịch năm xưa.
Hoa Thịnh Đốn là thủ đô chính trị quyền lực của nước Mỹ và cũng là của thế giới. Có đến Hoa Thịnh Đốn thì mới có thể hình dung được phần nào sức mạnh Hoa Kỳ. Nếu người Trung Quốc có câu: “Có đến Bắc Kinh thì mới biết chức quan của mình nhỏ như thế nào” thì bây giờ ta cũng có thể nói: “Chưa đến Hoa Thịnh Đốn thì chưa biết thế nào là Mỹ”. Quả thật như thế, thật sự choáng ngợp với những công trình kiến trúc thuộc các cơ quan đầu não trung ương của chính quyền Mỹ. Nếu tượng đài tưởng niệm Washington Monument (dân Việt thường gọi là tháp bút chì) làm trung tâm thì bốn hướng tỏa ra là những cơ quan trọng yếu như: Bạch Cung (White House), Tòa nhà quốc hội, tòa nhà bộ ngân khố, Tòa nhà làm việc của phó tổng thống…
Hôm nay gần lễ Phật Đản, chúng ta nghe thầt Đạt Ma Huy Bảo nói chuyện trong khóa tu một ngày, thầy kể vui lắm, về câu chuyện người dẫn đường hay nói rõ hơn là người chỉ đường. Bắt đầu là một cô phật tử, cũng là hình thức người dẫn đường, cô ngoan đạo, có nhiều tín tâm và từ tâm nên hay đi giúp những người vừa mất, họ họp thành một nhóm 7, 8 người, đi độ niệm cho người chết vừa chết, hướng dẫn vong linh cầu nguyện buông bỏ phiền toái thế gian, xin mau sớm gặp đức từ phụ A Di Đà tiếp dẫn…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.