Hôm nay,  

Tác phẩm và tác giả

06/10/202300:00:00(Xem: 3262)

Logo cho fb 
Hồi học đệ tứ (lớp 9 bây giờ) tôi có một thằng bạn tên Thái Hải, con trai bác sĩ kiêm thi sĩ Thái Can, nó giống tôi ở cái tính “ba nhe” (phương ngữ miền Trung chỉ những bọn trẻ rắn mắt, cứng đầu, nghịch phá), nhưng khác tôi 180 độ: hắn học cực giỏi, tôi cực dốt! Hơn sáu mươi năm, tôi lang bạt kỳ hồ, thỉnh thoảng về quê nhưng chỉ như khách trọ, chỉ lưng bữa nửa tháng lại ra đi, nên không có cơ hội gặp bạn bè xưa, cũng có nghĩa kể từ ngày còn oắt con cho đến bây giờ tôi chưa gặp lại người bạn thời niên thiếu. Nghe nói sau này hắn cũng là bác sĩ như ông thân sinh. Phải thôi, học giỏi như nó, không nối nghiệp cha mới lạ.
 
Một lần đến nhà nó tôi vô cùng ngạc nhiên: người đàn ông đạo mạo, nói năng từ tốn, chững chạc ấy là thi sĩ Thái Can ư? Trong đầu tôi, không rõ từ bao giờ, luôn mang định kiến thi sĩ phải đi kèm với hình ảnh những gã đàn ông con trai đầu bù tóc rối, áo quần nhàu nhĩ bẩn thỉu, phát ngôn khệnh khạng tưng tửng. Làm gì có loại thi nhân mặt mày nghiêm nghị, nói năng từ tốn, ăn mặc chỉnh tề thế kia?
 
Thái Can có một bài thơ ai cũng biết, được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc, đình đám môt thời, bài thơ tôi được đọc lần đầu năm mười ba tuổi từ tuyển tập chép tay do một học trò của ba tôi sưu tầm và trình bày. Cho tôi mở một dấu ngoặc: Hơn sáu mươi năm trước chưa có internet, in ấn cũng khó khăn, sách rất đắt so với túi tiền của lũ học trò còn ăn bám cha mẹ, nên chép tay là một hình thức lưu giữ, cũng là thú chơi… tao nhã phổ biến của hầu hết bọn trẻ say mê thi ca, nói riêng văn chương nói chung. Tôi có một bạn học rất say mê văn chương, cậu ấy đã bỏ công sức nhiều ngày nắn nót chép lại tiểu thuyết Giông Tố của Vũ Trọng Phụng, chép xong, đóng thành tập rồi rị mọ vẽ lại hình bìa, tuy nét vẽ vụng về, ngây ngô, nhưng với cậu ấy là niềm hãnh diện, và với tôi, tất nhiên không khỏi thán phục.
   
Trở lại bài thơ Anh biết em đi chẳng trở về của Thái Can.
   
Như hầu hết bọn trẻ cùng thời, ngoài những bài thơ đắm say của Xuân Diệu, Huy Cận, Thâm Tâm, Hồ Dzếnh, Nguyễn Bính… tôi mê bài thơ Anh biết em đi chẳng trở về. Vì mê nên thuộc lòng. Hơn sáu mươi năm đã qua, bây giờ sắp nhảy vào bảy tấm, vẫn còn nhớ từng dòng, từng chữ:
 
Anh biết em đi chẳng trở về
 
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về
 
Em nhớ làm chi tiếng ái ân
Đàn xưa đã lỡ khúc dương cầm
Dây loan chẳng đượm tình âu yếm
Em nhớ làm chi tiếng ái ân
 
Bên gốc thông già ta lỡ ghi
Tình ta âu yếm lúc xuân thì
Em nên xóa dấu thề non nước
Bên gốc thông già ta lỡ ghi
 
Chẳng phải vì anh, chẳng tại em
Hoa thu tàn tạ rụng bên thềm
Ái tình sớm nở chiều phai rụng
Chẳng phải vì anh chẳng tại em
 
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan
Tình kia sao giữ được muôn vàn…
Em đừng nên giận tình phai lạt
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan
 
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.
 
Đắm đuối cực kỳ.

Thuở đó tôi nghĩ, để tạo ra những con chữ đầy sức mê hoặc kia chắc chắn tác giả phải có một tâm hồn sũng ướt lãng mạn, và tất nhiên, ngoại hình hẳn không khác định kiến từng bám rễ trong đầu, hoàn toàn lạ lẫm với cuộc đời bon chen danh lợi, cơm áo gạo tiền tầm thường. Đó là những trích tiên “đi trong sân mà nghĩ chuyện trên trời”, là những kẻ vượt ra ngoài mọi phiền trược thế gian. Họ sinh tồn ở cõi khác.
 
Nhìn người đàn ông ăn mặc chỉnh tề, dáng vẻ đạo mạo, mặt khó đăm đăm, nói năng nghiêm nghị, tôi không thể nào tìm thấy mối liên hệ nào với bài thơ tôi từng say mê.
 
Thi sĩ Thái Can đây sao?
 
Sau này lớn hơn, hệ lụy sâu vào thế giới chữ nghĩa, quen biết khá nhiều giới cầm bút, tôi dần phát hiện ra, giữa tác phẩm và tác giả là một khoảng cách vời vợi. Có những bài thơ ngất ngưởng hơi men, hào sảng trượng phu, xem tiền tài vật chất tầm thường như củ khoai lang, thế nhưng tác giả lại là một anh cả quỷnh bún xỉn, không cà phê, không thuốc lá, không chè chén, suốt đời trà đá chanh đường, và xem đồng bạc cắc to hơn bánh xe lửa, chưa từng đãi ai cho dù một cái donut. Lại nữa, có những trang chữ ngang tàng chọc trời khuấy nước, gươm đàn nửa gánh non sông một chèo, lên non xuống biển, gió bụi ghềnh thác đã trải, thế mà được khai sinh từ một anh công chức mẫn cán sáng vác ô đi tối vác về và tuyệt đối chu toàn bổn phận làm chồng làm cha dưới mái ấm gia đình, chưa từng biết đường xa xứ lạ, chưa từng nếm trải, dù một ngày cái thú tang bồng!
 
Nhớ mấy mươi năm trước, thời khí thế chống cộng của cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung, tại Mỹ, nói riêng đang dâng cao ngút trời. Một lần trong buổi triển lãm của anh bạn họa sĩ từ Pháp sang, anh này thường đi về Việt Nam, và cũng đã nhiều lần mang tranh về nước trưng bày. Tất nhiên, trong mắt nhìn của thành phần cực đoan (tuy không phải đa số, nhưng cả tiếng và hung hăng nhất), anh họa sĩ này chắc chắn phải là… Việt Cộng nằm vùng, hay giá chót cũng thuộc thành phần ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, nên đến giờ khai mạc, trước cửa phòng triển lãm lố nhố chừng chục mống với cờ vàng ba sọc đỏ cầm tay, miệng gào thét không ngớt những lời hoan hô đả đảo “sắt máu”, khiến khách thưởng ngoạn muốn vào xem tranh đành lắc đầu ngao ngán ra về. Trong đám kiêu binh này có một anh nhà văn (anh ta tự phong thế), vài ba năm mới sản xuất được vài trang chữ ngổn ngang những từ đao to búa lớn, “khí thế ngùn ngụt”, hô hào, động viên đồng hương hải ngoại hãy đoàn kết một lòng, kiên trì nuôi dưỡng mối hận không đội trời chung với bè lũ tham tàn khát máu đang đè đầu cưỡi cổ dân đen. Rồi hùng hổ hẹn một  ngày không xa sẽ phất cờ chính nghĩa trở về giải phóng quê hương! Tôi kinh ngạc, từ lâu tôi nào lạ gì tên này, vừa hèn vừa ngu, ăn hại đái nát, núp dưới đũng quần vợ cốt có một ngày hai bữa cơm.
 
 “Nhà văn” đấu tranh thề một mất một còn với kẻ thù chung đây sao?
 
Lại nhớ ngày tôi mới giải ngũ sau bảy năm trong binh chủng nhảy dù vào sinh ra tử, với sáu mảnh đạn trong đầu. Sau nhiều tháng ngược xuôi hết cơ sở này đến xí nghiệp nọ, cuối cùng tôi cũng xin được việc làm tại một công ty quảng cáo. Cùng phòng với tôi là bốn đồng nghiệp, trong số này có một thi sĩ vang danh khắp nước, với những bài thơ ngạo nghễ, bi tráng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Nhưng chỉ vài ngày sau chàng thi sĩ kia hoàn toàn không như tôi tưởng, nhìn cách hắn điếu đóm bợ đỡ thượng cấp, trông hèn hạ và ti tiện hết chỗ nói, đã thế, đối với đồng nghiệp anh ta lại tỏ rõ bản chất nhỏ nhen, bần tiện và ích kỷ, tư cách thua xa một kẻ thất phu vô học.
 
Nhà thơ với những bài thơ chất ngất hào khí đây sao?
 
Nhớ xa hơn, thuở chỉ mới ngoài hai mươi, khi tôi còn khoác quân phục, trong đại đội của tôi có một nhà văn khá nổi tiếng mới được điều về. Buổi đầu và những ngày sau, trong mắt tôi, anh nhà văn là thần tượng tôi hết lòng nể trọng, nghĩ, sẽ một ngày kia theo chân anh ta bước vào thế giới văn chương với những trang chữ phiêu hốt, trượng phu. Thế rồi trong một lần hành quân đụng trận, thần tượng của tôi bỗng chốc hiện rõ nguyên hình một tên con trai hèn nhát. Nhìn tác giả của những trang chữ hừng hực hào khí vục mặt sau gốc cây kêu mẹ réo cha ỏm tỏi khi vừa nghe tiếng đạn của ta và địch đì đùng chung quanh, tôi thất vọng não nề.
 
Nhà văn xem thường hòn tên mũi đạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng đây sao?
 
Quả, giữa tác phẩm và tác giả là một đại dương mênh mông xa cách.
 
Người xưa nói văn tức người xem chừng không mấy chính xác.
   
Tôi chủ quan và khắt khe quá chăng?
 
Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các dân tộc bản địa châu Mỹ, thổ dân châu Mỹ hay người Indian, gọi là “người da đỏ” để chỉ dân bản địa ở Hoa Kỳ mà bắt nguồn từ tiếng “redskin” dù màu da của họ không thực sự đỏ. Họ là các nhóm cư dân tiên khởi của Mỹ châu lục địa trước khi người châu Âu khám phá ra đại lục này vào cuối thế kỷ 15 (thời kỳ tiền Colombo). Có rất nhiều bộ tộc: Navajo, Cherokee, Sioux, Ojibwe, Choctaw, Apache, Lumbee, Pueblo, Muskogee. Xin đề cập về người Cherokee, được xem là bộ tộc quan trọng của người Indian.
Trong lãnh vực sáng tác từ ngôn ngữ cho đến tác phẩm trực quan, các chuyên gia và các tác giả đang quan tâm đến khả năng sáng tạo của AI, sự hiện diện và tác dụng của trí thông minh nhân tạo sẽ làm thay đổi quan niệm và phương pháp, kỹ thuật và nghệ thuật truyền thống. Trong lĩnh vực tạo ra các tác phẩm viết có thể được coi là văn học (như thơ, văn xuôi và kịch) là một lĩnh vực nghiên cứu tích cực, trải dài từ các phương pháp tiếp cận con người. Mục đích là tạo ra các văn bản sáng tạo không thể phân biệt được với các văn bản do con người viết.
Năm 2024 có thể được cho là một năm đầy sóng gió, nhưng giữa những thách thức, có một niềm an ủi lớn: nhân loại đang hiểu biết về không gian nhiều hơn bao giờ hết. Chúng ta đang ở thời điểm chưa từng có trong lịch sử, khi khoa học liên tục tiến bộ và những bí ẩn của không gian dần hé lộ. Tuy nhiên, việc xác định đâu là những khám phá khoa học nổi bật nhất trong năm không phải dễ dàng. Một số khám phá có tác động ngay tức thì và có ý nghĩa sâu đậm đến cách chúng ta hiểu về thế giới, nhân loại hay không gian. Đây là những khoảnh khắc “sung sướng” thực sự.
Hai chục năm trước tôi nghe các bạn từ thời sinh viên làm việc trong vùng Thung lũng Điện tử San Jose, California nói về AI. Khi đó, trải nghiệm AI của tôi, và chắc cũng là của rất nhiều người trong vài thập niên qua, bắt đầu với những cuộc gọi điện mà được trả lời bằng máy. Vì giọng tiếng Anh của tôi còn mùi nước mắm nên nhiều khi máy không nhận ra điều gì tôi muốn, làm nhiều khi bực mình nhưng phải phì cười. Mới đây, tôi vào ChatGPT hỏi xem AI biết gì về mình. Những câu hỏi tôi đưa ra và câu trả lời của ChatGPT là ngôn từ và cách trả lời của ChatGPT mà tôi không biên tập hay sửa lỗi gì.
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.
Tây Ninh trong trí nhớ, Tây Ninh trong trái tim của những cô gái Tây Ninh và chàng trai lính chiến đến rồi đi để lại đau đớn trong lòng cô con gái nhỏ. Tây Ninh với thánh thất Cao Đài hùng tráng uy nghi. Tây Ninh trong lòng người mộ đạo đi đâu cũng thành lập thánh thất Cao Đài, mô hình giống như tòa thánh Tây Ninh. Người xa Tây Ninh tìm về thăm lại quê cha đất tổ, thăm thánh thất Cao Đài, núi Bà Đen, thăm lại làng Từ Bi.
Những nhân vật nổi tiếng có quyền thế thường đặt ra các tiêu chuẩn ứng xử cho những người ngưỡng mộ va kính trọng họ. Điều này có khả năng gây ra sự tiêu cực, nhưng đôi khi, các nhà lãnh đạo của chúng ta đã hành xử rất đáng kính. Vào ngày 13/5/1981, Giáo hoàng John PauI đã bị Mehmet Ali Ağca bắn bốn phát khi ông đi qua Quảng trường Thánh Peter ở Thành phố Vatican. Hai viên đạn bắn trúng bụng Giáo hoàng, một viên trúng cánh tay phải và một viên trúng ngón trỏ trái. Trong cơn đau dữ dội, Giáo hoàng đã được đội an ninh đưa đi, và mặc dù mất rất nhiều máu, Giáo hoàng vẫn vuợt qua được
Nhắc đến danh ca, minh tinh Doris Day, khán thính giả trên thế giới liên tưởng đến ca khúc Que Sera, Sera ((Whatever Will Be, Will Be) trong phim The Man Who Knew Too Much đã gắn liền với tên tuổi của Doris Day. Phim The Man Who Knew Too Much của hãng Paramount do đạo diễn Alfred Hitchcock với tài tử James Stewart và minh tinh Doris Day. Ca khúc Que Sera, Sera với điệu Valse của Jay Livingston & Ray Evans do Doris Day trình bày với giọng ca mềm mại du dương, thành thót trong phim được nhận giải Oscar nhạc phim hay nhất năm 1956. Ca khúc nầy với lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy tựa đề Biết Ra Sao Ngày Sau rất phổ biến ở miền Nam Việt Nam.
Tôi đã có bài viết về nhạc chế, nay lại nhạc nhái, có trùng lắp không? Nhạc chế, theo từ điện mở Wikipedia, tiếng Anh là parody music hay musical parody, là việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ lời bài hát so với bản gốc (thường là nổi tiếng), hoặc sao chép phong cách đặc biệt của một nhà soạn nhạc hoặc nghệ sĩ hoặc thậm chí là một phong cách âm nhạc chung. Nhạc chế tồn tại trong đời sống xã hội như một dạng văn nghệ dân gian, cũng tương tự như chuyện tiếu lâm, chủ yếu là truyền khẩu, giúp mọi người giải trí vui vẻ trong phạm vi từng cộng đồng nhỏ hẹp. Những ca khúc chế lời trên thực tế rất có sức hút đối với người nghe, nhất là khi nội dung lời ca có tình hài hước, gắn với một sự kiện nào đó mà dư luận đang rất quan tâm.
Suốt cả tuần lễ của đầu tháng 10 vừa qua, trên trang nhất của tất cả những tờ báo quốc doanh đều xuất hiện một dòng chữ đỏ rất to, và rất đậm: CHÀO MỪNG 70 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ! Vietnamnet hớn hở chạy tin: “Đi bất kỳ đâu trên phố trung tâm Hà Nội những ngày này, người dân đều có thể thấy hình ảnh mang ý nghĩa lịch sử về ngày giải phóng Thủ đô cách đây tròn 70 năm trên các pano, áp phích cùng cờ hoa được trang trí rực rỡ… Khoảng 10.000 người có màn tập duyệt cuối cùng các phần diễu hành, trình diễn cho ‘Ngày hội Văn hóa vì hòa bình’ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024)”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.