Hôm nay,  

Sự đời

13/10/202300:00:00(Xem: 3159)
 
Logo cho fb
 
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất:
   
Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng), tôi nghĩ, chắc đau xón đái.
   
Một con bé người Phi dong dỏng cao, xinh gái, lễ phép, vui vẻ, dịu dàng.
   
Các y tá luân phiên, chừng 10 ngày vòng xoay lại đến. Ban đầu tôi rất mong con bé sẽ lo cho mình, ngược lại, nơm nớp sợ tên Mỹ đen “tra tấn”.
   
Nhưng sự đời nhiều cái thực không thể ngờ.
   
Con bé dễ thương như thiên thần lại vụng về đến… kinh hoàng. Nó thường lụi kim trật lất, năm lần bảy lượt mới trúng mạch máu, cứ như tay chơi thứ thiệt, thọc trên nạy dưới đâm ngang xỏ dọc. Đau tắt thở!!! Ngược lại, “con gấu” trông bặm trợn lại tuyệt vời, lụi kim chính xác và êm ái nhẹ hơn kiến cắn, thậm chí có lúc tưởng như không.
   
Từ lúc ấy tình cảm tôi xoay 180 độ. Trông chờ đến phiên tên da đen bao nhiêu thì sợ gặp thiên thần bấy nhiêu.
   
Từ chuyện lọc máu, nhỏ, chợt nhớ chuyện xưa, lớn hơn.
   
Hai chuyện tình tiết khác nhau nhưng có cùng mẫu số chung: đau! Một đằng đau thể xác, đằng kia đau tinh thần. Nỗi đau thể xác qua nhanh (nhiều năm qua, cách ngày, hàng ngàn mũi kim đã lụi vào mạch máu, nhưng chỉ đau vài giây rồi thôi). Nỗi đau tinh thần khó xóa. Tuy thời gian có làm nhạt bớt, vậy mà thỉnh thoảng hồi nhớ vẫn nghe nhoi nhói, cảm giác nhoi nhói này chắc chắn sẽ bám theo cho đến ngày xuống lỗ.
   
Thuở trên dưới hai mươi tôi sống khá buông tuồng. Rượu, cà phê, thuốc lá, gái trai nhăng nhít. Rượu? Ngày nào cũng uống, một mình có thể nốc nửa lít rượu trắng Bà Điểm (nổi tiếng nặng đô, hơn cả Vodka của Nga). Các thứ khác của Tây, Tàu, Nhật như Hennessy VS Cognac, Johnnie Walker, Mai Quế lộ, Sakê… tôi thừa sức nốc hết ly này sang ly khác, càng uống càng hưng phấn! Còn bia? Khác chi nước lã, chỉ để giải khát, và để…. xúc miệng cho thơm râu! Cà phê? Ngày bốn cữ, sáng trưa chiều tối, chưa kể cà kê dê ngỗng với bạn bè ở các quán đèn mờ, nhạc nhiếc khuất chìm lướt thướt êm ru kiểu Hầm Gió, Mù U… và chỉ sính đen đậm, đắng như sái thuốc phiện. Thuốc lá? Ngày hai bao Bastos xanh. Mọi thứ khác như Ruby, Captan, Camel… nhẹ quá, rít bao nhiêu điếu mới đã? Thứ có đầu lọc, mùi bạc hà the the đỏm dáng càng chả ra chi, chỉ dành cho bọn công tử học đòi ăn chơi hoặc nhi nữ con nhà… rách! Hoặc nữa, các em cave trong vòng ôm mấy tên GI mắt xanh mũi lõ ở các Night Club xập xình nhạc Disco. Và gái? Tôi không đẹp giai, mắt một mí, răng cải mả vô trật tự, trán hói lơ thơ vài sợi tóc, ốm nhách, đi đứng hấp ta hấp tấp như bị ma rượt (theo mấy ngài thầy bói: số bần hàn cơ cực, không vác thuê gánh mướn cũng xích lô ba gác đổ mồ hôi sôi nước mắt chưa chắc rau mắm đủ no), lại xuất thân hạ lưu, cha mẹ lao động chân tay, quanh năm, dầm mưa dãi nắng nên da dẻ đen đúa sần sùi. Đương nhiên tôi `thừa hưởng tố chất di truyền, cũng đen nhẻm.
   
Tuy ngoại hình rất ư phản mỹ thuật là thế tôi vẫn được tiếng đắt đào. Người sính tử vi bảo tôi có sao đào hoa chiếu mệnh. Riêng tôi, hiểu, chả tướng với số gì, chỉ là tôi đủ khôn để biết, muốn đạt mục đích, điều kiện ắt có và đủ là nói năng tán tỉnh hoặc giả vờ lắp bắp đúng điệu nhát gái, hoặc mồm miệng bôi mỡ trơn tru, dẻo ngọt như kẹo mạch nha, cộng thêm ngón võ lì, dai hơn ghẻ rách! Ban đầu các nàng đỏng đảnh trề môi: không có cửa mô! Nhưng tôi vẫn kiên trì bám trụ tới hơi thở cuối cùng. Riết, các nàng động lòng trắc ẩn (phái nữ vốn nhẹ thể!) để rồi một ngày tay đây em hãy tựa đầu, cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
   
Vì đắt đào nên tôi hơi chảnh! Chỉ giăng câu thả lưới các nàng mày ngài mắt phượng, vóc dáng cao ráo, đầy đủ lễ bộ tựa các hoa hậu chân dài (nếu có thua cũng chỉ chút đỉnh không đáng kể). Nói chung, đó là những nhan sắc trên trung bình. Nàng nào ngoại hình thường thường bậc trung, tôi chê!
   

Năm mười tám tuổi tôi được cùng lúc hai nàng để mắt xanh. Một nàng đúng chỉ số tôi đề ra. Cuộc tình mặn nồng với đầy đủ cung bậc. Bỗng môt ngày nàng biến mất. Nửa tháng sau tôi mới hay nàng đã xuất giá tòng phu. Tôi đau, mất ăn mất ngủ nhiều tháng! Năm kế thi rớt tú tài, tôi vào lính. Sau bốn tháng quân trường tôi về đơn vị tác chiến với cái cánh gà bên vai. Thường, sau vài tháng hành quân đơn vị về hậu cứ nghỉ dưỡng. Thời gian này bọn lính lác chúng tôi mỗi sáng nếu không đi “rỏn” quanh vòng đai thành phố giữ an ninh cho thiên hạ an hưởng thái bình thì phải tạp dịch, lợp lại mái tôn, sơn quét doanh trại, rửa cầu tiêu, nhổ cỏ ngoài vận động trường… Một hôm tôi cùng tám thuộc hạ do tôi làm tiểu đội trưởng đang hì hục vét lại giao thông hào dọc lối đi dẫn ra cổng, chợt tai nghe tiếng thắng rít nhẹ cùng tiếng động cơ nổ êm. Ngẩng lên, và do phản xạ, tôi thẳng người, đưa cao tay chào đúng lễ nghi quân cách. Trên xe, băng sau, thiếu tá tiểu đoàn trưởng ngồi vắt chân chữ ngũ, ung dung, trên môi ngậm ống vố, mùi khói hap in hap thơm lừng:
   
“Làm tốt nhé, mai tôi cho nghỉ một ngày, mặc sức ăn nhậu.”
   
Bà vợ ngồi bên giục:
   
“Đi thôi, không khéo tới trễ, tiệc tùng toàn tai to mặt lớn, mình tới trễ coi hổng được.”
   
Mải lo chào kính tôi không để ý phu nhân sếp, đến khi nghe giọng quen, tôi giật mình nhìn kỹ. Nàng, người tình thứ nhất của tôi, son môi bóng nhẫy, áo sơ mi trắng, vét tông khoác ngoài, khăn lông quàng cổ, tóc vấn cao, đôi bông tai lấp lánh hai hạt kim cương. Nàng chồm người soi lại dung nhan trong kính chiếu hậu, không thèm nhìn bọn lính chúng tôi!
   
Ôi, nàng đó sao? Con họa mi có đôi cánh xanh mùa đông (trời lạnh, nàng thường mặc áo len xanh) từng thề non hẹn biển, từng trong vòng tay tôi, mắt long lanh ướt, nhõng nhẽo: “Anh ơi, yêu em mãi nhé, đừng một dạ hai lòng, em tự tử cho anh ân hận suốt đời.”
   
Gã tài xế cho xe vọt nhanh theo lệnh thượng cấp. Tôi sững người nhìn theo, lảo đảo muốn ngã. Tên lính đứng cạnh đưa tay đỡ:
   
“Trung sĩ răng rứa, mặt tái xanh, trúng gió à?”
   
Tôi cố trấn tĩnh:
   
“Không có chi, làm lẹ cho xong sớm, còn ra chợ sư đoàn mần vài xị.”
   
Tôi đau hơn bị hoạn, tư nhủ, tối nay phải say một trận nghiêng trời lệch đất cho quên mối hận tình!
     
Nàng thứ hai con nhà giàu, đi học bằng xe hơi có tài xế đưa đón, phải tội nàng có một dung nhan đáng thở dài, vóc dáng phì nhiêu, cao khiêm nhường, cười hở lợi phản cảm. Nàng yêu tôi rất mực. Tôi ỡm ờ, bởi lẽ so với nàng thứ nhất, chẳng khác ví gà với công, yêu nỗi gì! Thời ấy phong trào chạy patin nở rộ, khắp thành phố sân patin mọc lên như nấm. Nhà nàng cũng kinh doanh một sân patin hiện đại rộng thênh thang. Thông thường khách thuê giày có bánh xe của chủ để lướt, riêng tôi, nàng mua tặng một đôi patin bảnh chọe làm của riêng. Khổ nỗi tôi mê người tình thứ nhất, con chim họa mi có đôi cánh xanh mùa đông đỏm dáng, nên vội vả chạy đến nhà nàng với đôi patin cáu cạnh, trộ:
   
“Anh tặng em.”
   
“Cưng mua à?”
   
Tôi vênh mặt:
   
“Phải, đời anh cho được anh cũng cho, sá gì đôi patin.”
   
Nàng cảm động hôn tôi một cái rõ dài, môi mềm, thơm ngọt. Tôi ngất ngư, vượt qua ngay mặc cảm áy náy đã dùng quà của nàng thứ hai tặng lại người tình mặt hoa da phấn!
   
Ngày tôi vào lính, nàng thứ hai chăm chỉ viết năm ba chục lá thư than khóc tỉ tê, thề sẽ không yêu ai đến mãn kiếp. Tôi câm, vì chưa thể quện người tình thứ nhất. Về đơn vị một thời gian, tôi nghe tin nàng thứ hai lấy chồng theo lệnh song thân, nàng vốn dĩ con nhà lành, nào dám trái lòng phụ mẫu! Thế cũng xong.
   
Một hôm nghỉ phép tôi xuống phố, chạm mặt nàng trong quán kem, tay bế con chưa đầy tuổi, nàng lúng túng:
   
“Anh khỏe?”
   
“Khỏe, còn em?”
   
Nàng nhìn sâu vào mắt tôi, giọng trầm, rơm rớm:
   
“Khỏe, nhưng…”
   
Ngập ngừng vài giây, nàng hạ giọng:
   
“Em không quên được anh.”
   
*
 
Người xưa nói không sai: tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
   
Cô bé người Phi dễ thương tựa thiên thần nhưng lụi kim vụng về, đau tắt thở, anh Mỹ đen mặt mày bặm trợn, nói năng cộc cằn, dáng thô kệch như con gấu, nhưng lụi kim chính xác, nhẹ nhàng, êm ru. Và một nàng nhan sắc chim sa cá lặn nhưng thay lòng đổi dạ khó lường, nàng kia dung nhan tựa tiếng thở dài nhưng thủy chung rất mực.
   
Sự đời lắm nỗi đa đoan, sai đúng khó phân!
 
– Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trời mưa, mưa lai rai suốt một tuần lễ và cả những ngày tháng trước đó nữa, năm nay mưa nhiều. Có lúc nắng chợt đến sưởi ấm khô đất, nắng sưởi ấm vạn vật và làm khô ráo rất mau...
Biển là nơi chất chứa nhiều kỷ niệm của nhân loại, trong đó có tôi. Biển cũng là một nghĩa địa mênh mông chôn cất hàng tỷ sinh mạng, trong đó, chưa có tôi. Nói một cách mộng mơ hơn, biển là niềm vui và nỗi buồn, là vui sướng và khổ nạn. Nhưng khó mà biết được, biển vô cùng độc ác, dù ngoài mặt xanh trong, tung tăng những đợt sóng trắng. Trông hiền lành, thậm chí dễ thương, như nhiều người xung quanh. Có bao nhiêu lần chúng ta ngạc nhiên hoặc đau lòng vì sự tráo trở của những người quen biết hiền lành? Họ là một loại biển sâu, thăm thẳm, một loại nghĩa địa nước.
Hai phụ nữ bị thưa ra Tòa án Paris về tội xúc phạm sĩ diện và đời sống riêng tư vì hai người này quả quyết bà vợ của ông Tổng thống Macron là người chuyển giới và bà vì thế không phải là mẹ của các con của bà. Hai phụ nữ loan tin thất thiệt đó sẽ ra Tòa vào ngày 16 tháng 6 tới đây. Một bà là đồng bóng, bà kia là nhà báo độc lập. Đồng thời, nhiều Twitter và hashtag #JeanMichelTrogneux đồng loạt quả quyết Đệ nhứt phu nhơn thật sự là một phụ nữ chuyển giới, tên khai sanh là Jean-Michel Trogneux.
Ảo thì không phải là sự thật, không có thật. Những từ ngữ mà chúng ta thường nghe có liên quan xa gần đến việc sống ảo là ảo ảnh, ảo giác, ảo tưởng, ảo vọng, vân. vân...Ảo thuật nhằm đánh lừa giác quan chớ không phải là thật. Đó chỉ là một trò giải trí để mua vui chớ không có hại như ảo giác, ảo tưởng, ảo vọng của những người sống ảo, xa rời thực tế. Sống ảo là một căn bệnh tâm lý gây ra bởi nhiều lý do phức tạp khác nhau, tùy trường hợp của mỗi cá nhân. Có thể là do kém hiểu biết cùng với mê tín, mê muội, có thể do một tại nạn hay một biến cố xảy ra để lại một vết thương trong tâm hồn, có thể do một chấn động vì người thân đột ngột qua đời, có thể do sự thất bại ngoài xã hội, và trong gia đình, có thể vì ảo tưởng theo đuồi một mục tiêu không thật và cuối cùng chạm phải một thực tế phủ phàng.
Ngày nhỏ chúng tôi căng miệng hát một cách thích thú bài nhạc chế từ bài La Marseillaise, bài quốc ca của Pháp. Tôi thuộc cho tới bây giờ, sau nhiều chục năm tôi vẫn còn hát được. “Thầy đồ ngày xưa quen thói nuôi móng tay dài / quần trễ tai hồng đỏ đen mực son. Đầu lúc la lúc lắc đảo như lên đồng / được dăm trẻ ghẻ lở quá hủi phong. / Quát lấy điếu, đem bình phóng , bưng cơi trầu. / Nhân chi sơ, người đi trước / ta bảo phải để vào tai dốt đặc. Ở trên đầu thầy có cái chi lúc lắc? Búi tó, nó to bằng niêu / tính ghét móng tay hằng cân / thọc luôn trong nách, bật tanh tách hoài / Ngâm thơ thích chí rung đùi”. Nhớ nhưng không chắc có đúng không, có thể có chỗ không nhớ tôi đã chế ra. Nhạc chế cũng như ca dao không bao giờ có tên tác giả. Không biết đây là một bài nhạc chế để chọc quê chính quốc lúc đó đang cai trị Việt Nam hay đùa chơi với các thầy đồ của một anh học trò không thích tới trường.
Tình cờ trong một gian hàng của nghệ nhân làm Bonsai, cây kiểng, tôi thấy trưng bày một chậu kiểng nhỏ, có nhiều nhánh cong queo, lá hình bầu dục, phía dưới có nhiều lông trắng óng ánh như nhung, trĩu nặng từng chùm quả nhỏ tròn trông giống như trái mồng tơi nhưng nhiều màu sắc: xanh, vàng, đỏ, tím đen... trông rất quen, nhưng không thể gọi ngay ra tên của loài cây này được...
Tôi quen biết một cô Tây, gọi là một cô đầm thì đúng hơn, tên gọi đầy đủ là Florence Cavalier, vợ của ông tây Jean Paul Cavalier. Florence còn trẻ, lối 30 tuổi. Ngày từ khi còn nhỏ, 9 tuổi, Florence đã là một hướng đạo sinh, scout, lớn lên em học và hành nghề y tá. Cái gốc scout và nghề nghiệp y tá bổ túc lẫn cho nhau, thêm Flor có ngoại hình xinh xắn tươi vui, thành ra trông lúc nào cô ấy cũng tràn đầy nghị lực, sức sống và yêu đời...
Muốn biết một đất nước có văn minh hay không, người ta thường quan sát nhiều khía cạnh khác nhau với một tinh thần phóng khoáng, một tâm trạng cởi mở, không thiên vị, về xã hội, cách điều hành đất nước (governance), việc bảo tồn và thăng tiến văn hóa, về mức sống người dân như việc chăm sóc sức khỏe, môi trường, giáo dục, và trên hết là sự hạnh phúc (well-being) của người dân...
Cuối tháng ba, đầu tháng tư và kéo dài đến tháng sáu, tháng bảy, du khách đến với Đà Lạt, từ những con đường Hai Bà Trưng, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, đến Hồ Xuân Hương, Chợ Đà Lạt, hay Thung Lũng Tình Yêu, Thiền Viện Trúc Lâm... sẽ thấy lòng mình chùng xuống, trước sắc tím lãng mạn, êm đềm và thơ mộng của những cây “ phượng vĩ tím” hay gọi tắt là “phượng tím”. Những cây phượng có nguồn gốc từ Châu Âu, du nhập vào Đà Lạt từ những năm 1962 của thế kỷ trước.
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội, người người nói, nhà nhà nói. Nó trở thành từ cửa miệng của rất nhiều người trong đạo lẫn ngoài đời. Những tà sư, thầy cúng, các nhóm lợi ích kết hợp với những thế lực chính trị và thế lực ngầm ra sức phá rừng, xẻ núi, lấp ruộng… để làm những ngôi chùa, đền, miếu khổng lồ phục vụ cho cái gọi là du lịch tâm linh, hành hương tâm linh… Ngoài những ngôi chùa khổng lồ ấy ra còn có vô số chùa tư, đền, miếu, am, dinh, miễu...mọc lên như nấm sau mưa. Có một điểm chung là các cơ sở này thờ hằm bà lằng từ Phật, thánh thần, thiên, ông đồng bà cốt, cậu hoàng… và cả những nhân vật chính trị thế tục.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.