Hôm nay,  

Bươm Bướm

18/10/202400:00:00(Xem: 2421)

Picture2a
Lúc sau này tôi bỗng thích nghịch ngợm chút đỉnh. Nghịch ngợm là cái thú của thời con nít với những côn trùng thân yêu như dế mèn, chuồn chuồn, đom đóm, ve sầu, chim sáo, chào mào. Sau khi phổ biến ba bài Ve Sầu, Chuồn Chuồn và Đom Đóm, các ông bạn già của tôi coi bộ phấn khích như sống lại tuổi thơ. Một ông hỏi tôi đã viết về bươm bướm chưa? Tôi ngẩn người nhớ lại và cho ông bạn biết là bướm không biết bay thì viết rồi, bướm bay thì chưa. Ông này vốn chân chỉ hạt bột, chỉ thích bướm bay, để ông nhớ tới thời đã mất.

Thời đó, lũ con trai chúng tôi khoái chơi với ve sầu, dế hơn là bươm bướm. Chơi với bươm bướm là lũ con gái, thành ngữ đã xác định chuyện “hái hoa bắt bướm” là thú vui của giới hay khóc nhè. Như trong thơ của Giang Nam:

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ? "
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích
Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi

Bướm và hoa thường là một cặp. Cả hai cùng mang vẻ đẹp rực rỡ của màu sắc. Hoa muôn sắc thì bướm cũng muôn màu. Đó là nhan sắc nhưng cũng là tai họa. Chúng đều bị đày đọa vì sự rực rỡ tạo hóa rộng lượng ban cho. Hình như người đẹp cũng vậy. Hoa bị hái, bướm bị bắt. Có tập lưu bút nào không mang xác chết của bướm bị ướp dẹp cùng với những cánh hoa khô ép mình trong  những trang thơm mùi học trò.

Chuyện thời tuổi nhỏ thường nhỏ, chuyện mưu sinh của người lớn thường lớn hơn. Ngày nay tại Việt Nam có những cơ sở nuôi bướm để làm tranh bướm rất được du khách ưa chuộng. Người đầu tiên làm nghề “giết” bướm có lẽ là anh Nguyễn Trọng Thắng. Cũng là tình cờ mà anh được đưa vào cái nghề… sát bướm này. Vào khoảng năm 1992, gia đình anh sinh sống bằng nghề bán nước giải khát trên đèo Bảo Lộc. Một bữa có một đoàn du khách người Nhật và Tây Ban Nha ghé vào quán của anh kêu nước uống. Họ nhận ra vùng đèo này có nhiều loài bướm đẹp và một vị khách tốt bụng đã truyền cho anh nghề làm tranh bằng bướm. Thoạt đầu, anh vào rừng bắt bướm về làm tranh nhưng sau đó anh nuôi bướm để có thể chủ động trong việc sản xuất tranh. Trong hơn 20 năm trong nghề, anh đã lai tạo được 30 giống bướm từ bướm tự nhiên. Trại nuôi bướm của anh hiện có tới khoảng 300 loài bướm hiếm lạ. Anh vẫn tiếp tục vào rừng tìm kiếm những loài bướm mới. Trại nuôi bướm của anh là một khu vườn có cây ăn trái và nhiều loại hoa cỏ. Anh giăng lưới bốn bề để giữ bướm không bay ra ngoài được. Bướm được bắt bằng vợt để khỏi mất phấn màu hoặc gãy cánh. Sau đó sẽ dùng formol và các chất hóa học chích vào bướm. Bướm chết nhưng cơ thể vẫn còn nguyên màu sắc. Tranh bướm của anh đầy tính nghệ thuật và được xuất cảng qua các nước Nhật, Hàn, Nga, Pháp, Tây Ban Nha.

Trại bướm của anh Thắng có bán các giống bướm qua các giai đoạn từ trứng, ấu trùng tới bướm giống. Cũng như những “bạn” ngày thơ ấu của chúng ta như ve sầu, chuồn chuồn, đom đóm, vòng đời của bướm cũng trải qua nhiều giai đoạn. Vào mùa xuân, bướm cái giao phối cùng bướm đực. Đặc biệt là bướm cái chỉ giao phối một lần. Sau đó khi có con đực đến ve vãn, bướm cái sẽ khép cánh lại từ chối. “Nàng” thủ tiết để đẻ trứng làm nhiệm vụ truyền giống. Trứng được đẻ trên lá hoặc thân cây và được dính chặt để không bị rơi xuống đất. Thời gian trứng nở phụ thuộc vào loài và các yếu tố môi trường, thường từ 3 tới 8 ngày. Sau đó trứng nở khi ấu trùng phá bỏ lớp vỏ và chui ra.

Ấu trùng được gọi là sâu bướm. Bữa ăn đầu tiên của sâu bướm chính là vỏ trứng. Vỏ trứng chứa nhiều dưỡng chất cần thiết để sâu bướm phát triển. Sau đó sâu bướm sẽ ăn cây và trải qua nhiều lần lột xác. Sau mỗi lần lột, sâu bướm sẽ to hơn và ăn lớp da vừa lột để bổ sung protein và dưỡng chất. Ở giai đoạn này sâu bướm chỉ ăn, thải phân và lột xác cho tới giai đoạn cuối cùng để chuẩn bị hóa nhộng. Khi đã sẵn sàng hóa nhộng, sâu bướm sẽ đi lang thang trên cây để tìm một nơi an toàn. Chúng sẽ tạo ra một lớp da đặc, dày và khỏe mạnh làm cho lớp vỏ cuối cùng bị ố.

Giai đoạn nhộng là thời kỳ nghỉ ngơi nhưng thực ra là thời kỳ mà bên trong chuyển đổi mạnh mẽ nhất. Nhộng không ăn, không di chuyển và chỉ cần một cái chạm nhẹ nhộng sẽ rơi xuống đất. Bất động bên ngoài nhưng bên trong là một quá trình phân hủy, thay đổi cơ thể. Quá trình này được gọi là histoblast chuyển đổi sâu bướm thành bướm. Bướm trưởng thành, được gọi là imago, xuất hiện từ lớp biểu bì với cái bụng sưng lên và đôi cánh bị nhem nhuốc. Trong vài giờ đầu, bướm sẽ bơm máu vào tĩnh mạch trong cánh để mở rộng cánh. Các chất còn sót lại trong quá trình biến đổi, được gọi là meconium, sẽ được thải ra từ hậu môn. Một khi cánh đã được mở rộng hoàn toàn và được se khô, bướm trưởng thành sẽ bay đi hút mật hoa để sống. Có nhiều giống không ăn chay như vậy mà hút chất lỏng bên trong xác chết của các loài vật, hoặc hút bùn hoặc chất thải của các động vật. Đôi khi chúng hút mồ hôi, nước mắt của rùa và cá sấu vì trong đó có chứa natri làm tăng khả năng sinh sản của bướm. Rồi chúng bay đi kiếm bạn tình. Chúng tìm và bắt cặp với nhau bằng cách khoe màu. Một số loài bướm dùng hương để tìm tới nhau. Hương tỏa ra từ vài miếng vảy trên cánh con đực tạo ra mùi thơm thu hút con cái. Rồi lại đẻ trứng…

Thứ bướm mà các cô nàng nho nhỏ mê say vì màu sắc lộng lẫy là bướm ngày. Màu sắc của chúng được tạo ra từ hàng ngàn vảy nhỏ li ti được xếp lên nhau. Đôi khi chúng là những hạt có màu nhưng thông thường thì bề mặt của các vảy này có thể khúc xạ ánh sáng, do đó cánh bướm có màu sắc liên tục thay đổi, lấp lánh khi di chuyển. Thường thì bên dưới cánh có màu xám hoặc nâu, khác xa với màu sặc sỡ ở phía trên. Những màu xấu xí bên dưới dùng để ngụy trang khi cánh được xếp lại để thoát khỏi cặp mắt sân lùng của chim và các loài sâu bọ khác.

Ngoài bướm ngày còn có thứ bướm đêm. Mấy anh dân chơi lại khoái loại bướm không biết bay này hơn. Nói vậy là nói bóng nói gió nhưng thực tế có loại bướm đêm biết bay thiệt. Mà có nhiều chứ không phải ít. Theo Viện Smithsonian, có tới 160 ngàn loài bướm đêm trong khi bướm ngày chỉ có 11 ngàn loài. Cánh của bướm đêm có xu hướng màu tối, thường là xám, nâu hoặc màu ngà. Bướm đêm chịu phận nhu mì vì chúng thường đi ăn đêm, ban ngày chúng đậu ngụy trang trên những vật màu tối như vỏ cây chẳng hạn. Khi ngủ, hai loại bướm cũng khác nhau. Bướm ngày khép cánh một cách có ý tứ trong khi bướm đêm mở rộng cánh hoặc duỗi hai cánh dọc theo thân thể.

Bướm nhởn nhơ bên hoa là một khung cảnh thơ mộng. Các nhà thơ rất kết với hình ảnh rất thơ này. Hầu như các nhà thơ đều dính phấn bướm. Từ Đỗ Phủ, vua Thiệu Trị, Mạc Đĩnh Chi của thuở xa xưa đến những Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Xuân Quỳnh rồi Phạm Thiên Thư, Trần Vấn Lệ, Bùi Chí Vinh, Quan Dương, Lê Hân của ngày nay. Nhưng người lậm bướm vào thơ nhất không ai qua mặt được Nguyễn Bính. Cái giậu mùng tơi trong bài thơ “Người Hàng Xóm” chúng ta hầu như ai cũng biết.

Giá đừng có giậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này

nguyen binh

Nguyễn Bính (1918-1966)

Trong toàn bộ 270 bài sáng tác trước 1945 của Nguyễn Bính, có tới 75 bài dính tới bướm. Tính chi li ra thì cứ đọc trung bình 3,6 bài thơ của thi nhân chân quê này, chúng ta lại bắt gặp một cánh bướm. Tác giả Đỗ Anh Vũ , trong bài “Những Cánh Bướm Đa Tình” đã phân tích rất kỹ về hiện tượng bướm trong thơ Nguyễn Bính: “Về định danh theo tính chất, có các loại bướm như: bướm xưa, bướm yêu, bướm lười, bướm xuân xanh, bướm già, bướm láng giềng, bướm giang hồ, bướm tiên, bướm non, bướm dại… Cuối cùng là những trường hợp bướm xuất hiện với tư cách của chủ thể hành động. Cánh bướm ở đây thêm một lần nữa được hiện lên với các sắc màu vô cùng sinh động, thể hiện sự nhân cách hoá cao độ của nhà thơ trong việc tri nhận bướm với những hành động và cảm xúc của con người: lũ bướm tưởng hoa, bướm lại sang, bướm khép cánh, bướm hãy vào đây, bướm quả quyết yêu hoa, bướm vẽ vòng, bướm hẹn về, bướm nói điêu, bướm lại ong qua, bướm cánh nghiêng nghiêng, bướm vờn hoa, bướm rũ trăm năm, bướm tha phương, bướm cưới hoa hồng, bướm có bằng lòng, bướm dậy thì, bướm đi tu, bướm chê hoa vàng, bướm chẳng chung tình, bướm dạy nàng thêu, bướm lại đưa tin, bướm ra công vẽ bùa, bướm ủ hoa… Một trong những độc đáo của Nguyễn Bính là dùng bướm để biểu thị cho người đàn ông mà trước hết là cho chính mình: “Bao giờ bến mới gặp đò / Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”(Tương tư)…Nhìn chung, cánh bướm trong thơ Nguyễn Bính luôn được đặt trong mối quan hệ với tình yêu, trở thành biểu tượng của tình yêu và thể hiện một nhân sinh quan về tình yêu”.   

Nhà viết chèo Hoàng Tấn, một người bạn thân của Nguyễn Bính, tiết lộ: "Nguyễn Bính có một tập thơ đầu tay chưa in mà Bính rất trân trọng. Đó là tập thơ Bướm. Bính tự nhận tiền thân của mình là Bướm, nên lấy bút hiệu là Điệp Lang, tự coi mình là Hồ Điệp, Trang sinh, hồn bướm mơ hoa, những giấc bướm đã ru Bính vào giấc mộng triền miên, quên cái thực tại đau buồn, suốt thời thơ ấu. Bên cạnh tập thơ Bướm đó, Bính còn cho tôi coi bộ sưu tập khá công phu về những cánh bướm đủ loại, đủ cỡ, đủ sắc màu mà Bính săn bắt trong những năm tháng ở Thái Nguyên, Phú thọ, Yên Bái, Cao Bằng...".

Cứ nhùng nhằng với Nguyễn Bính không biết tới bao giờ mới dứt ra được vì chúng ta còn phải xem qua nhiều nghiên cứu về chuyện bướm và thi nhân. Tôi muốn đọc vài câu thơ về bướm của các nhà thơ mật thiết với chúng ta hơn. Tôi vẫn ưa cái nghịch ngợm duyên dáng trong thơ Quan Dương. Thử đọc một bài ngăn ngắn của nhà thơ đang cùng nhịp thở với chúng ta, coi như cái xoải cánh uể oải của chú bướm…chắt răng!

Ngày em chưa biết điểm trang
Như hoa còn búp xanh rờn ngây thơ
Tôi con bướm đực còn tơ
Đậu trên búp nụ tỉnh bơ. Ngu đần.
 
Nước trôi lách kẽ ngón chân
Búp xanh đã nở nụ hồng mãn khai
Biết soi gương kẻ chân mày
Biết chôn tuyệt tích thơ ngây xuống mồ
 
Tôi vừa cũng hết dại khờ
Biết đau khi vẫy tay chia cuộc tình
Bây giờ em đã thành tinh
Bao nhiêu bướm khác chực rình chung quanh
 
Ngày xưa đậu búp em xanh
Ngu không hút nhụy nay đành...chắt răng!
 
                                                                                          
10/2024                                                                    
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi chưa bị bắt, và bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần – có lần – Nguyễn Thúy Hạnh kể lại một câu chuyện hơi tếu táo (“Chuyện Một Người Bất Đồng Chính Kiến”) nhưng nghe rồi tôi lại thoáng buồn buồn: Bác tên là Nguyễn Thế Đàm, người từng hai lần bị tống vào hoả lò cũ và hoả lò mới, rồi hai lần bị đẩy vào trại tâm thần, Trâu Quỳ và Thường Tín. “Tôi khẳng định ông ấy bị điên. Cả thế giới người ta thấy mà lặng im ko nói, chỉ một mình ông ấy nói ra, thế chả là điên thì là gì?”Giám đốc bệnh viện tâm thần thời đó đã nói vậy khi vợ bác khăng khăng chồng mình ko bị điên. Vậy bác Đàm “nói” cái gì? Đó là những truyền đơn nhằm vào ông Hồ, mục đích để ông Hồ ko còn là thánh, trong đó thường gọi ông Hồ là “ngu Hồ”, và rằng chủ nghĩa Mác là phản động… Thời những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mà đi rải truyền đơn hạ bệ lãnh tụ, lại còn viết đủ cả tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của mình vào truyền đơn rồi đi phát tận tay từng người thì quả đúng là vuốt râu hùm.
Từ Montreal Canada đến Detroit mất hai tiếng rưỡi, rồi từ Detroit bang Michigan Hoa Kỳ đến Nhật Bản khoảng 13 tiếng rưỡi, dù máy bay có rộng rãi cách mấy, tiện nghi bao nhiêu đi nữa cũng làm tôi không sao chợp mắt được; trên máy bay chúng tôi được phục vụ một bữa chính gồm khoai tây nghiền với gà hầm cà chua thơm ngon, một salad, một thanh cheese, một desert, một chai rượu đỏ hoặc trắng tùy khách chọn, vừa ăn uống vừa coi hết film này đến film khác; khoảng 3,4 tiếng sau lại cho ăn tiếp lót dạ một pizza với sauce cà chua cá hồi, đồ uống nước cam, coke hay trà thì được phục vụ liên tục. Sau bữa ăn mọi người ai nấy dập dìu viếng thăm căn phòng nhỏ cuối máy bay, xếp hàng dài chờ phiên mình; mục này cũng làm cho mọi người đứng lên di chuyển, vươn vai, duỗi chân cho đỡ mệt mỏi.
**01/10 -- Bùi Diễm (01/10/1923– 24/10/2021) là một chính khách Việt Nam. Ông nắm giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ từ năm 1967 đến năm 1972. --1908 - Mẫu xe T của Henry Ford, một "chiếc xe phổ thông" được thiết kế cho đại chúng, được bán lần đầu tiên. -- 1938 - Quân đội của Hitler chiếm đóng phần Sudetenland của Tiệp Khắc. Trong nỗ lực tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp đã đồng ý nhượng khu vực nói tiếng Đức cho Hitler, người sau đó đã phá vỡ thỏa thuận và chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc.
Hãy thử nhớ lại lần gần đây nhất quý vị viết ghi chú, một ghi chú ngắn hoặc danh sách mua sắm chẳng hạn. Có thể quý vị đã không dùng tới giấy và viết. Hơn mười năm qua, bàn phím và màn hình đã lặng lẽ thay thế chữ viết tay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, từ trường, lớp cho đến các cuộc họp hành. Thậm chí, một số trường học trên thế giới đã ngừng hoàn toàn việc rèn chữ viết (cursive).
Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.
“Cò” đây chẳng phải “Con Cò mày đi ăn đêm” mà cũng chẳng phải “Cái Cò súng của các ông”, không phải, giời ạ. Cò-cảnh-sát hay Cò-mồi lại càng không phải nốt. Cò đây là Thầy Cò. Đúng ra phải gọi là Cô Cò hoặc Bà Cò thì chính xác hơn, nhưng trong ngôn ngữ tiếng Việt tôi chưa thấy ai gọi như thế bao giờ, nghe nó tréo ngoe, nó chỏi tai thế nào ấy. Có lẽ tại cái “nghề Cò” từ hồi nảo hồi nào chỉ toàn do các ông đảm nhiệm. Nhưng thời buổi bây giờ, thời buổi mà các bà các cô có thừa bản lĩnh để xâm chiếm hầu hết các lãnh vực trong nhà (thì đã đành) cũng như ngoài phố thì chắc chắn đã có nhiều Cò phái nữ, mà tôi là một thí dụ điển hình.
Từ khi sinh ra và biết nhận thức thì nhớ/quên gắn liền với cuộc sống hằng ngày cho đến khi lìa trần. Phân Tâm Học ((Psychoanalysis) đã giải thích về nhớ/quên theo trình tự thời gian từ tuổi thơ đến tuổi già nhưng thực tế nó không hoàn toàn như vậy mà tùy theo hoàn cảnh, môi trường sống, giáo dục, xã hội… biến động tâm lý ảnh hưởng đến từng cá nhân với não bộ.
Hồi đó chúng tôi học triết lớp 12C, chúng tôi học với cô Chu Kim Long và có tuần với thầy Vĩnh Để. Cả hai giáo sư của chúng tôi chia giờ ra giảng dậy về tâm lý học rồi phân tâm học về vô thức của triết gia Simon Freud. Phần lý luận học và đạo đức học thì dễ dàng hơn. Riêng phần tâm lý học, nhất là tâm lý học ngôi thứ ba khúc mắc, ở phần dằng co giữa ý thức và vô thức… thành ra bài học bài giảng làm chúng tôi điên đầu và cô, thầy chúng tôi cũng khô cổ họng.
Thông thường, nhà xưa có nền hơi cao nên phải bước lên tam cấp để vào nhà! Ngôi nhà có ba gian hai chái với hàng ba rộng. Trong bếp có ông Táo là ba cục đất, hoặc ba viên gạch... Theo truyền thuyết, đó là “một Bà và hai Ông”. Họ như vậy mà vẫn chịu nổi sức nóng của lửa củi! Hay quá! Đàn bà đi chợ, cho dù món hàng chỉ có đôi ba đồng, họ vẫn trả giá đôi ba lần. Để khỏi bị hố! Cuộc sống của họ dính liền với “ba cọc ba đồng” đó mà! À! Nhân nói về đàn bà mới nhớ ra theo truyền thống, họ phải chịu nép mình vào “Tam tòng tứ đức”! Kẹt lắm chớ không phải chơi đâu! Trong lúc đàn ông thời xưa có “năm thê bảy thiếp” thì đàn bà thời nào cũng chỉ “Chính chuyên một chồng”!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.