Hôm nay,  

Nó và Tôi

07/03/202512:20:00(Xem: 3309)

dinhcuongsummerlotus



Mỗi năm, tôi đều nhận được điện thư hoặc thiệp chúc Tết từ một số bạn, trong đó có nó. Nó không gởi thư Merry Christmas, Happy New Year, chỉ duy nhất dịp Tết Âm lịch. Nó là dân miền Tây cần cù, hiếu hoc, là bạn thân của tôi.
    Email nó gởi kèm theo mấy tấm hình Tết ở Bạc Liêu, quê nó. Bạc Liêu bây giờ khác xa hồi đó, hồi chúng tôi còn là sinh viên những năm 70. Đêm thành phố Bạc Liêu sáng rực rỡ trên đường bày hàng bán Tết. Nó đứng hòa vào khung cảnh nhộn nhịp nhưng không khác xưa, vẫn áo chemise, quần Tây, giày sandal, nụ cười e lệ không điệu bộ. Thời trang là thứ xa xỉ trong cuộc sống của nó. Tôi quý nó chỗ đó!
    Nó lên Sài Gòn học. Những tháng ngày trên lớp, nó luôn đi học sớm và dành cho tôi chỗ ngồi kế bên. Không biết nó “kết” tôi ở điểm nào mà chọn tôi làm “bạn tâm giao” tới lúc tốt nghiệp. Lúc đầu, tôi không mấy để ý đến nó vì ngoại hình bình thường, học lực cũng bình thường, lại không hoạt bát; nhưng lâu dần, tôi thấy mến nó hơn. Trong lớp, nó chỉ có vỏn vẹn 2 người bạn cùng quê và tôi, dân Sài Gòn. Năm đầu, nó ở chung nhà thuê với hai bạn cùng quê. Sau đó, em gái nó thi đậu vào Đại Học Y Khoa Sài Gòn nên hai chị em thuê nhà khác.
    Bản chất thật thà, chất phác nên nó đã không ít lần bị hai bạn kia mượn tiền không trả. Nó biết bị quỵt nợ mà không dám làm cách nào lấy lại tiền, chỉ chọn cách tâm sự với tôi. Tôi làm “quân sư quạt mo” kêu nó không đòi được tiền thì nghỉ chơi luôn cho khỏe, nhưng nó thà bị mất tiền còn hơn mất bạn! Nó hiền lành và coi trọng tình bạn chứ không khờ khạo, vẫn đối xử tử tế với hai bạn kia làm tôi bực mình. Tôi cấm nó không được kể lể ba cái chuyện phiền phức đó nữa, nhưng nhìn bộ mặt buồn xo của nó, tôi đành mặc kệ, tiếp tục im lặng nghe đủ thứ chuyện trời ơi của nó! Không cần biết người khác nghĩ nó ra sao, tôi chỉ cảm thấy chơi với nó rất dễ chịu, không hao tâm tốn sức đề phòng, mà chơi càng lâu càng thân. Trong bụng nó đầy chữ nghĩa từ sách vở nhưng chưa từng đọc truyện Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy... thần tượng của tuổi trẻ thời đó. Cho nên, thỉnh thoảng nghe tôi kể sơ một vài mẩu truyện ngắn của các nhà văn này, nó tỏ ra thích thú như con nít, cứ như tôi đã mở ra cho nó một bầu trời mới mẻ và hấp dẫn.
    Nó thường rủ tôi về Bạc Liêu chơi mỗi dịp Hè, Tết, hoặc những ngày nghỉ sau kỳ thi, nhưng sao tôi có thể đi trong khi nhà nhiều việc được? Vì vậy, bất cứ lúc nào có thời gian, tôi xách túi ra bến xe miền Tây, lên xe đò xuống Bạc Liêu mà không nhất thiết cùng đi với nó. Khỏi phải nói, lần nào đón tôi ở bến xe, nó cũng mừng muốn khóc. Hai đứa lên xe thổ mộ, xe ngựa có chỗ ngồi với mái che, về nhà. Tôi thích ngồi đằng sau xe, thả hai chân xuống, nghe tiếng lóc cóc chậm rãi của vó ngựa, ngắm quán xá, xe cộ qua lại trên đường; cảm giác thật tự do, sung sướng. Nó ngồi phía trong xe, cạnh tôi, tay nắm chặt tay tôi làm như sợ tôi rớt xuống đường. Nó đâu biết bạn thân của nó có máu “tiếu ngạo giang hồ” và “lì” nữa.
    Căn nhà gạch đơn sơ của gia đình nó nằm khiêm tốn trong một khoảng sân đất rộng, trống trải không hàng rào, vài chỗ lót bê tông. Lần nào tôi về chơi cũng gặp má của nó đầu tiên. Bà thường ngồi trên chiếc ghế dựa gỗ đặt trước hiên nhà, không biết chờ con gái học trên thành phố về hay chỉ ngồi hóng gió? Tôi rất thích nghe tiếng “con” hoặc “bây” trìu mến đậm chất Nam bộ của bà mỗi lần chúng tôi về nhà, như ‘Dìa rồi hả bây? Ngồi xe mệt không con? Dô nhà tắm rửa ăn cơm đi, v.v…”
    Nó còn một chị Ba chưa lập gia đình, ở chung nhà. Chị nói chuyện tự nhiên và lanh lợi, không giống nó. Chị ân cần chăm sóc tôi như khách quý. Có lẽ chị biết tôi là bạn thân hiếm hoi của nó, chịu khó lặn lội từ thành phố về tỉnh lẻ thăm em chị. Chị là cô giáo trường Tiểu Học Bạc Liêu nên dành nhiều thì giờ ở nhà chăm sóc gia đình.
    Buổi tối, ba chị em ngủ chung một giường. Cái giường đặc biệt này có một không hai tôi được thấy trong đời, và chắc chỉ có ở nhà nó. (Mà tôi có biết nhà nào khác đâu?) Đó là một cái hồ chứa nước to, diện tích khoảng 3mx4m, cao phải hơn 1m. Nắp hồ là miếng bê tông dày cứng cáp. Chúng tôi chỉ cần trải chiếc chiếu trên nắp hồ là thành giường ngủ. Còn nữa, ở đây không treo mùng mà không có muỗi. Tôi thắc mắc hỏi thì nó nói, chung quanh sân nhà là đất cát, không cây cối, hồ nước lại xây trong nhà nên không có muỗi. Đơn giản vậy sao?
    Nó đưa tôi đi coi căn nhà cổ của Công Tử Bạc Liêu, chỉ một lần cho biết thôi vì từ nhà nó tới đó khá xa. Còn hầu hết thời gian trong ngày, nó dẫn tôi đi chợ, đủ các chợ gần xa, cũng bằng xe thổ mộ. Thành phố Bạc Liêu nhỏ nên chợ nào cũng nhỏ. Chúng tôi đi chợ mua đồ về nhà nấu ăn, có khi đi suốt ngày thì ăn hàng trong chợ. Nó giới thiệu mấy xe hủ tíu ngon của các chú Tiều và các hàng chè đủ loại. Nó luôn luôn “bao” tôi ăn uống, không để tôi trả tiền. Biết nó thật tình nên tôi không ngại. Bạc Liêu có một chợ bán nhiều hàng hóa cũ-mới giống Khu Dân Sinh Sài Gòn. Chợ này dĩ nhiên không rộng lớn, hàng hóa cũng không đẹp, nhưng đi dạo ngắm chơi cũng vui mắt.
    Tôi nhớ mãi những bữa cơm do chị Ba nấu, có canh bầu cá trê, thịt ba rọi luộc chấm mắm nêm, cá rô đồng kho tiêu; là những món mà ở nhà, tôi không bao giờ thấy trên mâm cơm. Chị Ba nghe tôi khen đồ ăn ngon nên thường để dành cho chúng tôi khi đi chơi về trễ. Ở nhà nó, tôi thật sự thoải mái, tự nhiên vì đã xem gia đình nó như gia đình của mình. Nó cũng mồ côi cha như tôi. Ba nó đi lính, chết trận năm Mậu Thân 1968. Nó còn chị Hai đang ở Cà Mau, em gái học ĐHYK Sài Gòn là kế nó, và cậu em út, phụ công việc với chị Hai, thỉnh thoảng về nhà. Chị em nó đều coi tôi như người trong nhà. Điều này làm tôi rất vui.
    Chị Hai lấy chồng Cà Mau, mở tiệm bán thuốc Tây ngay chợ. Nó giúp chị mua thuốc ở Sài Gòn theo “toa” chị ghi, đem về cho chị. Tôi thường theo nó đi xe buýt về Cà Mau. Lúc đó bến xe Cà Mau nhỏ xíu, còn nhỏ hơn bến xe Bạc Liêu. Bãi đậu xe chỉ là một bãi đất, bụi bay mù mịt khi xe chạy. Vậy chứ vẫn có những gánh hàng rong và những bàn trà đá, và người ta vẫn ăn uống thản nhiên! Chúng tôi giao thuốc cho chị Hai xong là trở về ngay vì chị suốt ngày bận rộn ngoài tiệm. Mỗi lần rời Cà Mau, chị luôn gói thêm cho tôi bánh Pía và tôm khô mà theo lời chị, “trên Sài Gòn thích lắm!”
    Trước ngày tôi trở về Sài Gòn, nó không bao giờ quên thắng cho tôi một hũ lớn mỡ heo, bỏ thêm vài ký gạo. Trong chiếc giỏ lát, ngoài gạo và mỡ heo, còn chứa đầy một tình bạn quý giá. Biết tôi không ưa rườm rà, đi chơi chỉ xách một túi vừa đủ để áo quần và đồ dùng cá nhân, nên nó tự tay xách “quà” giùm tôi ra bến xe. Tới nơi, nó leo lên xe tìm chỗ ngồi rồi để cái giỏ ngay đó, dặn tôi đừng quên. Xuống xe, nó còn đứng tần ngần dưới cửa sổ, không nói một lời, cho tới khi xe lăn bánh. Lần nào cũng vậy, vóc dáng nhỏ nhắn của nó từ từ xa tầm nhìn của tôi, rõ nét, không bao giờ thay đổi.
    Từ khi chúng tôi tốt nghiệp, nó về quê dạy học, tôi ra tận Cam Ranh, hai nơi xa xôi ít gặp nhau. Vậy mà khi nghe tin mỗi dịp tôi về Sài Gòn là nó ghé nhà thăm, không biết nó đi từ Bạc Liêu hay tỉnh thành nào? Nó đã từng làm tôi ngạc nhiên như lần nó xuất hiện tại trường Trung Học tôi đang dạy, chỉ để thăm và đem ít bánh trái cho tôi. Tôi mà rầy rà thì lại bị nghe “Thương mới cho ăn chớ”, câu nói quen thuộc kiểu “bà già trầu” của nó. Nó vậy đó, im-im lặng-lặng, chẳng nói-chẳng rằng nhưng toàn gây bất ngờ!
    Khi em gái nó tốt nghiệp, làm việc tại bịnh viện Bình Dân Sài Gòn, hai chị em mua căn nhà riêng ở Gò Vấp. Nó đổi nghề, mở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Xuất Khẩu thảm xơ dừa và dây thừng tại Long An. Tôi hỏi nó học từ đâu mà dám kinh doanh một ngành nghề lạ hoắc như vậy, mới biết chồng của nó có nghề này dưới quê, kêu nó bỏ tiền ra làm ăn riêng. Tưởng công việc phát triển thuận lợi, không ngờ, vợ chồng nó phải li dị vì nó lấy nhầm một người đàn ông nhậu nhẹt và nợ nần. Nó quyết định giữ lại công ty do nó gầy dựng và tiếp tục việc sản xuất. Nó miệt mài làm việc, đã trả hết nợ, và bảy năm sau khi li dị, nó lập gia đình với một anh chàng Việt Nam, đại diện cho một công ty của Mỹ, là khách hàng của công ty nó. Đám cưới lần thứ nhì, nó cũng đích thân đem thiệp mời tới nhà tôi. Trong ngày hôn lễ, nhìn nó ngượng ngùng trong chiếc đầm trắng hợp thời, tôi nghĩ thầm “chắc nó đang bị thời trang làm phiền”. Đến nay, nó vẫn tự làm chủ công ty, không theo chồng qua Mỹ. Hai vợ chồng nó tuy không sống gần nhau, mỗi năm gặp nhau vài lần nhưng rất vui vẻ, hạnh phúc. Vậy mới nói, xa mặt chưa chắc đã cách lòng! Tôi mừng cho cuộc sống và sự nghiệp nó chọn.
    Tình bạn thuở học trò đẹp đẽ của chúng tôi theo thời gian không phai nhạt, dù hiện tại chúng tôi sống ở hai nơi rất xa, hiếm khi gặp nhau. Tết năm 2016, tôi về Việt Nam lo vài công chuyện. Nó biết tin, từ Long An lên Sài Gòn thăm tôi. Tôi giữ nó ở chơi với tôi một ngày rồi theo nó về Long An thăm xưởng sản xuất và nhà mới của nó. Gặp lại cậu út giờ là thợ chính trong xưởng, đã có gia đình và một con gái. Thời gian qua nhanh quá!
    Sẵn mấy ngày nghỉ Tết, nó chở tôi đi chợ Tết Tân An bằng xe gắn máy. Tôi thích ngắm hoa nên chúng tôi chỉ cần tới chỗ bày bán hoa tươi dọc theo bến sông. Dưới bến nước, nhiều ghe neo sát bờ, còn đầy hoa trong khoang. Những chậu hoa lớn nhỏ đủ cỡ và bông trái đủ loại, tạo nên một bức tranh đầy màu sắc Tết miền quê. Dạo quanh một hồi, tôi chọn mua 2 chậu mai lớn, trả tiền trước khi nó quay lại. Nó đã mua 5 cặp vạn thọ và thuê xe ba gác. Tôi nhờ khiêng lên xe 2 chậu mai chở về nhà luôn. Nó trố mắt nhìn, không kịp “trở tay”. Ăn trưa xong, chúng tôi – nó, cậu út, và tôi – hì hục sắp xếp mấy chậu hoa ngoài sân. Thợ đã nghỉ Tết nên chúng tôi phải lao động cho đến chiều tối.
    Theo thư nó kể, qua năm sau, nó kêu thợ đào hố và đem những cây vạn thọ trồng thẳng xuống đất, nhưng không sống được lâu vì quá nắng, hay vì sao không biết? Trái lại, hai chậu mai tôi mua, vẫn để trước cửa lớn, ra hoa đều đặn mỗi năm. Nó nói anh chồng nó rất thích vì đó là mai tứ quý. Anh ta coi bộ rành cây cảnh, chăm chỉ lặt lá và tưới nước đầy đủ nên cây lớn mạnh, nở rất nhiều hoa mỗi độ Tết về. Hai cây mai đẹp, có cái tên cũng đẹp mà tôi đã may mắn mua được từ Tết năm nào vẫn sống bền bỉ, tươi tốt như lời chúc Ăn Nên Làm Ra dành tặng nó.
    Tình bạn của nó và tôi không màu mè, khách sáo. Nó vẫn kêu tên tôi và xưng “tui”. Tôi thì cứ “bồ” và “tui” như xưa, dù hai đứa nay đã qua thất thập. Nó là đứa bạn duy nhất của tôi, mộc mạc, thật thà, còn giữ nguyên gốc dân quê Bạc Liêu như tên của nó, Nguyễn Thị S.

 

– Hồ Thị Kim Trâm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này tôi trân trọng giới thiệu Đỗ Kh. Nhà văn Đỗ Kh., hẳn không xa lạ gì với người yêu văn chương tiếng Việt, ở hải ngoại nói riêng, trong nước nó chung. Ba mươi bốn năm trước, Đỗ Kh. (lúc bấy giờ ông còn ký bút hiệu Đỗ Khiêm) là tác giả đầu tiên tôi chọn để trình làng nhà xuất bản Tân Thư do tôi chủ trương. CÂY GẬY LÀM MƯA cũng là tác phẩm đầu tiên tác giả này đến với thế giới văn chương tiếng việt. Ngoài CGLM, Tân Thư còn in của ông một tập truyện nữa, KHÔNG KHÍ THỜI CHƯA CHIẾN. Với bút pháp rất riêng cộng kiến thức và trải nghiệm sâu rộng qua những chuyến đi khắp mọi nơi trên hành tinh này, Đỗ Kh. cho chúng ta những bài viết lý thú.
Mặt trời như chiếc nong đỏ ối sắp chạm mái ngói phủ rêu của dãy phố cổ. Bức tường bên trái loang lổ, tróc lở, chồng chéo những dòng chữ thô tục cạnh các bộ phận sinh dục nam nữ đủ cỡ đủ kiểu vẽ bằng than hoặc mảnh gạch vỡ. Bức tường thấp, có chiếc cổng gỗ đã mất hẳn màu sơn, xiêu vẹo, quanh năm nằm trong vị thế mở ngõ. Chiếc cổng dẫn vào ngôi miếu nhỏ. Bên trong miếu, trên bệ thờ bằng xi măng hai ba bài vị chẳng hiểu viết gì, chẳng biết thờ ai. Trước bài vị, lư hương chỉ toàn chân nhang. Từ lâu không còn ai đến đây hương khói, ngôi miếu đã biến thành giang sơn riêng của dơi, chuột cùng các loại côn trùng. Cạnh ngôi miếu, một tàn cổ thụ rậm lá với những rễ phụ chảy thõng thượt, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ. Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
Hai hôm trước một cô em, cũng cầm bút, đến thăm, nhân tiện đề nghị, nếu sức khỏe không cho phép tôi gõ chữ thì cô ấy sẽ giúp, tôi chỉ cần nói qua băng ghi âm, cô em chép lại rồi giao cho tôi nhuận sắc. Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, qua trao đổi riêng, vẫn nhiều lần khuyên tôi nên viết hồi ký. Theo hai người, do một thời chủ trương tạp chí Hợp Lưu, tôi có điều kiện tiếp cận và rành rất nhiều chuyện của giới văn nghệ sĩ cũng như văn học hải ngoại lẫn trong nước, nếu tôi không làm thì rồi mọi sự cố sẽ trôi vào lãng quên, thiệt thòi cho văn học Việt Nam, uổng lắm.
Tuổi già thường sống với dĩ vãng. Nhiều chuyện tưởng đã vĩnh viễn ra khỏi trí nhớ, thế mà bất chợt bỗng hiện về, có khi mồn một từng chi tiết nhỏ, tựa mới xảy ra hôm qua, hôm kia, có khi nhập nhòa hư thực bất phân. Chuyện này không lâu, chỉ 23 mươi năm, trước một năm ngày tôi bị tai biến. Nhớ, vì có một chi tiết, lạc đề, nhưng vui.
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con. Tôi thích vì rất hợp tạng. Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con. Tôi thích vì rất hợp tạng. Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn "Ba Điều Bốn Chuyện" này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.