Hôm nay,  

Làm Mẹ: Bộ Não Sẽ Có Những Thay Đổi Sâu Sắc, Vĩnh Viễn

27/09/202400:00:00(Xem: 1042)

lam me
Quá trình mang thai không chỉ có những thay đổi về sinh lý, mà còn tạo ra những thay đổi sâu sắc và lâu dài trong não bộ, một điều mà khoa học chỉ mới bắt đầu hiểu rõ gần đây. (Nguồn: pixabay.com)

Các hormone phái tính như estrogentestosterone có vai trò rất quan trọng trong não bộ, ảnh hưởng đến tâm trạng, trí nhớ và nhiều yếu tố khác. Mang thai là giai đoạn có sự thay đổi hormone mạnh mẽ nhất trong đời người, nhưng cho đến nay, giai đoạn 9 tháng thiêng liêng này vẫn luôn là một “hộp đen” ẩn chứa nhiều điều bí ẩn mà các khoa học gia về thần kinh chưa thể khám phá hết.
 
Trong một nghiên cứu mới công bố trên Nature Neuroscience, các khoa học gia đã chụp hình não bộ của một phụ nữ 26 lần – từ trước khi mang thai, trong thời gian thai kỳ và sau khi sinh – để quan sát những thay đổi diễn ra trong não bộ suốt thời gian này. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những chi tiết quan trọng về sự thay đổi của não bộ trong thời gian mang thai.
 
Emily Jacobs, khoa học gia thần kinh tại Đại học California, Santa Barbara và đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết: “Điều này không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về giai đoạn quan trọng trong cuộc đời người phụ nữ, mà còn có thể mang lại những kiến thức quý giá ẩn sâu mà chúng ta chưa từng chú ý đến.
 
Bị thu hút bởi tác động của hormone phái tính đối với não bộ, nhóm nghiên cứu của Jacobs đã khởi xướng một dự án có tên là “28 and me” cách đây vài năm, với mục tiêu ghi lại những thay đổi trong não bộ của phụ nữ trong suốt chu kỳ kinh nguyệt của họ. Sau đó, Liz Chrastil, khoa học gia thần kinh tại Đại học California, Irvine, đã gợi ý mở rộng nghiên cứu sang một giai đoạn thay đổi hormone mạnh mẽ khác: thai kỳ của chính cô. Tuy nhiên, nghiên cứu não bộ trong thai kỳ rất khó khăn vì có nhiều quy trình an toàn nghiêm ngặt phải tuân thủ để bảo vệ sức khỏe của cả hai mẹ con, khiến cho việc nghiên cứu trở nên phức tạp và thậm chí có thể là bất khả thi.
 
Những thay đổi trong não bộ
 
Các nghiên cứu trước đây về hình ảnh não bộ vào trước và sau khi mang thai đã chỉ ra rằng quá trình mang thai khiến một số phần của não bộ, đặc biệt là phần chất xám, bị “co lại” (sụt giảm). Chất xám là lớp ngoài của não, chịu trách nhiệm cho hầu hết các chức năng quan trọng như tư duy, cảm nhận, học tập và các hoạt động khác.
 
Việc chất xám bị co lại nghe có vẻ đáng sợ, nhưng đây là quá trình tự nhiên để bộ não tinh chỉnh và tối ưu hóa các kết nối thần kinh, giúp giải quyết thông tin hiệu quả hơn. Mặc dù người mẹ có thể cảm thấy hay quên trong thời kỳ mang thai (người ta hay dùng thuật ngữ “mommy brain” cho tình trạng này), nhưng những thay đổi này thực sự giúp họ tập trung hơn vào việc chăm sóc con cái sau khi sinh.
 
Pritschet nói: “Các mẹ có thể không nhớ mình bỏ mấy cái chìa khóa ở đâu, nhưng lại rất nhạy bén với những gì đang xảy ra với con mình.” Cô đặc biệt chú ý đến các thay đổi ở những vùng não liên quan đến nhận thức xã hội, giúp người mẹ dễ dàng hiểu và cảm nhận từ góc nhìn của con mình, từ đó cải thiện khả năng chăm sóc và phản ứng trước nhu cầu của trẻ.
 
Quy mô thay đổi của não bộ trong thời gian mang thai tương tự như những gì xảy ra ở não bộ thanh thiếu niên trong giai đoạn dậy thì, cũng do hormone chi phối. Những thay đổi về hormone trong cả hai giai đoạn này đều làm biến đổi cấu trúc và chức năng của não bộ. Đặc biệt, chỉ cần dựa vào hình chụp MRI não bộ, các nhà nghiên cứu có thể phát hiện ra liệu người phụ nữ đã từng mang thai hay chưa, dù là đã sinh con nhiều năm đi nữa. Vì vậy, dù nhiều người vẫn cho rằng bộ não của chúng ta trở nên hoàn thiện và sẽ ngừng phát triển thêm vào giữa những năm 20 tuổi, hormone vẫn có thể tạo ra những thay đổi lớn, tựa như những dấu vết vĩnh viễn, sẽ hằn sâu trong não bộ suốt nhiều năm sau đó.
 
Nghiên cứu trên não bộ của Chrastil cho thấy chất xám trong não của cô giảm hơn 4% trong suốt thời gian mang thai, và sự suy giảm này vẫn kéo dài ít nhất hai năm sau khi sinh, cho đến khi nghiên cứu kết thúc. Không giống như các nghiên cứu trước đây, nhóm nghiên cứu có thể chứng minh được sự sụt giảm chất xám diễn ra từ từ, bắt đầu từ những tuần đầu tiên của thai kỳ, đều đặn vào khoảng thời gian sinh nở, và kéo dài trong nhiều năm sau đó. Những thay đổi này liên quan đến sự gia tăng nồng độ của hai hormone phái tính, estradiolprogesterone. Không chỉ một khu vực, mà tới 80% các vùng não đều bị “co lại.” Một số vùng thay đổi nhanh hơn, nhưng nhóm nghiên cứu vẫn chưa tìm hiểu được ý nghĩa chính xác của những thay đổi này.
 
Dù đã đoán là chất xám sẽ giảm, nhưng nghiên cứu còn phát hiện ra rằng không chỉ chất xám, mà chất trắng – các sợi thần kinh giúp truyền thông tin trong não bộ - cũng có thay đổi. Chất trắng lại phát triển mạnh hơn, mạnh nhất là vào tam cá nguyệt thứ hai, rồi giảm dần trở lại mức bình thường vào thời điểm sinh nở. Vẫn chưa rõ chất trắng mạnh hơn có ý nghĩa gì đối với người làm mẹ, nhưng những thay đổi tương tự ở thanh thiếu niên thường liên quan đến việc họ có nhận thức tốt hơn.
 
Những phát hiện tạm thời này chỉ có thể xuất hiện trong những nghiên cứu theo dõi liên tục và thực hiện nhiều phiên chụp hình ảnh não bộ trong suốt quá trình mang thai,” Elseline Hoekzema, một khoa học gia thần kinh tại Trung tâm Y tế Đại học Amsterdam ở Hà Lan, nhận xét. Mặc dù nghiên cứu này chỉ có một người tham gia, nhóm nghiên cứu đã bắt đầu chụp hình MRI não bộ cho nhiều mẹ bầu sắp sinh khác, và có rất nhiều người muốn tham gia.
 
Từ phòng thí nghiệm đến phòng khám
 
Susana Carmona, khoa học gia thần kinh tại Viện Nghiên cứu Sức khỏe Gregorio Marañon ở Madrid, Tây Ban Nha, cho biết: “Những nghiên cứu như vậy là rất cần thiết để có thể hiểu rõ hơn về các xáo trộn tâm lý có thể xảy ra quanh thời điểm sinh con, và cả các triệu chứng chưa đủ nghiêm trọng để được chẩn đoán là bịnh.
 
Trầm uất khi có con (perinatal depression) ảnh hưởng đến khoảng 10-20% các bà mẹ, và con số này có thể nhiều hơn bởi có nhiều người không được chẩn bịnh. Do có rất ít nghiên cứu về não bộ của thai phụ, hiện vẫn chưa có phương pháp đáng tin cậy nào để phát hiện trầm uất khi mang thai và sau khi sinh nở.
 
Các khoa học gia hy vọng rằng nghiên cứu này và các nghiên cứu tiếp theo sẽ có thể làm sáng tỏ tốc độ thay đổi của chất xám và chất trắng trong quá trình mang thai. Sau khi tìm ra mô hình thay đổi, các nhà nghiên cứu có thể phát hiện những điều bất thường nào sẽ là dấu hiệu của trầm uất khi có con.
 
Ai biết được rằng những ứng dụng lâm sàng nào sẽ xuất hiện từ nghiên cứu này, nhưng trước tiên chúng ta phải coi đây là một câu hỏi đáng để nghiên cứu, và bấy lâu nay khoa học đã không chú ý tới,” Jacobs nói.
 
Ở Hoa Kỳ, dù có hơn 85% phụ nữ từng mang thai trong đời, nhưng các nhà nghiên cứu lại biết rất ít về tác động của việc mang thai lên não bộ. Các vấn đề sức khỏe của phụ nữ thường bị bỏ qua. Mãi đến năm 1993, các khoa học gia mới bắt buộc phải bao gồm phụ nữ trong các thử nghiệm lâm sàng, nhưng vẫn loại trừ thai phụ vì lý do an toàn. Trong suốt 25 năm qua, chưa đến 0.5% các nghiên cứu về hình ảnh não bộ có xem xét đến các yếu tố sức khỏe của riêng phụ nữ.
 
Đôi khi, việc loại trừ thai phụ ra khỏi các nghiên cứu là do quá cẩn trọng. Nhóm nghiên cứu của Jacobs đã sử dụng phương pháp chụp hình MRI, vốn khá an toàn chỉ trừ những trường hợp có kim loại được cấy ghép trong cơ thể. Mặc dù chưa thể chứng minh là có hại cho thai phụ, họ vẫn thường bị loại trừ khỏi các nghiên cứu MRI vì lo ngại nguy hại tiềm ẩn, chưa phát hiện.
 
Tôi nghĩ rằng có lẽ vấn đề an toàn được sử dụng như một cái cớ chung chung, nhưng thực sự là phụ nữ đã bị phớt lờ trong suốt lịch sử phát triển của các ngành khoa học y sinh,” Jacobs nói.
 
Jacobs là một trong nhiều khoa học gia thần kinh tin rằng MRI hoàn toàn an toàn cho thai phụ. Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ giúp thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu não bộ của thai phụ, từ đó khuyến khích việc chụp hình MRI não bộ trong thai kỳ trở nên phổ biến hơn.
 
Ngoài ra, nhóm cũng đã công khai dữ liệu nghiên cứu của mình để những nhà nghiên cứu khác có thể tải xuống và sử dụng. Họ mong rằng những người khác sẽ sử dụng dữ liệu này để thử nghiệm các kỹ thuật phân tích khác nhau, không chỉ giới hạn ở nghiên cứu về não bộ của thai phụ mà còn áp dụng cho các lĩnh vực nghiên cứu khác.
 
Các tổ chức như Ann S. Bowers Women's Brain Health Initiative, do Jacobs lãnh đạo, đang tạo điều kiện cho các nỗ lực hợp tác nhằm mở rộng hiểu biết khoa học về sức khỏe não bộ, không chỉ giới hạn trong cơ thể của các ông. Việc khuyến khích nghiên cứu về những ảnh hưởng của thai kỳ, mãn kinh, liệu pháp hormone, và các thay đổi hormone quan trọng khác, sẽ là một phần không thể thiếu để đảm bảo tiếng nói của phụ nữ và các nhóm phái tính thiểu số được đại diện trong khoa học. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến phụ nữ mà còn tác động đến rất nhiều đối tượng khác.

(VB biên dịch)
 Nguồn: “Pregnancy transforms the brain—and some changes last forever” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phim kinh dị, ngôi nhà ma ám, và những trò hù dọa nhau vào dịp Halloween thường là các hoạt động giải trí vô hại. Tuy nhiên, nỗi sợ mà chúng tạo ra có thể kích thích phản ứng “chống trả-hay-bỏ chạy” (fight or flight) của cơ thể và gây ra hàng loạt thay đổi sinh lý.
Số trường hợp bị đột quỵ (stroke) ngày càng tăng lên trên toàn thế giới chứ không chỉ ở Hoa Kỳ. Mặc dù ngày càng nhiều người sống sót sau cơn đột quỵ, nhưng điều đáng lo ngại là số ca đột quỵ ở những người trẻ tuổi đang tăng lên nhanh chóng, chứ không chỉ xảy ra chủ yếu ở người cao niên như trước đây. Theo báo cáo từ Cơ quan Kiểm soát và Phòng bệnh (CDC), từ năm 2011 đến 2022, tỷ lệ người sống sót sau cơn đột quỵ ở Hoa Kỳ đã tăng 7.8%, một con số tích cực; nhưng số trường hợp tử vong do đột quỵ ở những người từ 45 đến 64 tuổi lại tăng 7% từ năm 2013 đến 2019. Đặc biệt, vào năm 2021, con số này tăng lên đến 12%.
Tỷ lệ ung thư đại tràng (hay còn gọi là ung thư ruột già) ngày càng cao, đặc biệt ở người trẻ tuổi, và đây là loại ung thư phổ biến thứ ba trên thế giới hiện nay. Trong khi đó, đa số người dân ở Hoa Kỳ chỉ ăn khoảng một nửa lượng chất xơ cần thiết mỗi ngày. Và các khoa học gia cho rằng sự thiếu hụt chất xơ trong chế độ dinh dưỡng có thể là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ ung thư ruột già tăng lên, đặc biệt ở giới trẻ.
FDA vừa chấp thuận một thiết bị mới giúp giảm triệu chứng ù tai. Thiết bị này kết hợp việc kích thích điện lên lưỡi và phát âm thanh qua tai cùng một lúc. Christoffer Cederroth, nhà nghiên cứu tại Viện Karolinska, Thụy Điển, nhận định rằng phương pháp này là "bước tiến quan trọng" trong việc điều trị bệnh ù tai. Tình trạng ù tai, với các triệu chứng như tiếng kêu, tiếng rít, hay tiếng gõ, ảnh hưởng đến khoảng 15% dân số Thụy Điển.
Phó Tổng thống Kamala Harris đã trình bày kế hoạch mở rộng chương trình Medicare nhắm vào việc bao gồm thêm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà cho người cao niên. Kế hoạch này được bà chia sẻ trong chương trình talk show “The View.” Harris giải thích rằng bà mong có thể giảm bớt gánh nặng cho những người thuộc “Thế hệ sandwich,” ám chỉ thế hệ trung niên vừa phải nuôi con vừa phải chăm sóc cha mẹ già. Chi phí cho các dịch vụ chăm sóc mở rộng sẽ được trang trải nhờ số tiền tiết kiệm từ việc đàm phán với các công ty dược phẩm để giảm số tiền Medicare phải trả cho thuốc theo toa. Harris cũng kêu gọi mở rộng bảo hiểm Medicare để bao gồm cả các dịch vụ khám và chữa trị tai và mắt.
Medicare đã hoàn tất cuộc đàm phán đầu tiên với các nhà sản xuất thuốc trong năm nay. Congressional Budget Office (CBO) ước tính đàm phán thuốc theo toa sẽ tiết kiệm cho chính phủ khoảng 98.5 tỷ USD trong một thập niên. Chiến dịch tranh cử của bà Harris cho biết chi phí chăm sóc tại nhà ít hơn khoảng 3,000 USD mỗi tháng so với dịch vụ chăm sóc tại viện dưỡng lão.
Con người đã uống rượu từ hàng ngàn năm nay. Việc cụng ly với bạn bè hay nhấm nháp chút bia, rượu sau một ngày làm việc đã là một phần quá đỗi quen thuộc trong văn hóa của chúng ta. Nhưng tất cả những thứ đồ uống đó có ảnh hưởng gì đến cơ thể chúng ta? Ngày càng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng ngay cả việc uống rượu, bia ở mức độ vừa phải cũng có thể gây hại nhiều hơn chúng ta vẫn thường nghĩ.
Chăm sóc sức khỏe là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024. Hai ứng viên, Kamala Harris của Đảng Dân chủ và Donald Trump của Đảng Cộng hòa, có những quan điểm và hành động rất khác nhau về vấn đề này. Thay vì chỉ bàn về những lời hứa hẹn, chúng ta hãy cùng nhìn lại những hành động trong quá khứ của họ để thấy rõ lập trường và cách giải quyết của từng ứng viên đối với các vấn đề như Medicare, Đạo luật ACA, cơ sở hạ tầng y tế công cộng, chính sách về giá thuốc, ngăn chặn tình trạng lạm dụng trẻ em và bạo lực gia đình.
Để có sức khỏe tốt và sống thọ hơn, chúng ta không chỉ cần phải tập thể dục và ăn uống lành mạnh, mà còn cần tập giữ dáng điệu cơ thể phù hợp với các hoạt động. Dáng điệu phù hợp có thể giúp chúng ta tránh được nhiều vấn đề như đau cổ và lưng, các vấn đề về hệ hô hấp và hệ tiêu hóa, chơi thể thao không tốt, các bắp thịt dễ bị nhức mỏi và sự cân bằng hormone trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng. Nếu không được điều chỉnh, những vấn đề này có thể trở nên trầm trọng hơn theo thời gian.
Từ ngày 10/9/2024, theo quy định mới của Cơ quan Kiểm soát Thực-Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), tất cả các cơ sở có dịch vụ chụp nhũ ảnh (mammography) sẽ phải cung cấp cho phụ nữ đến chụp hình quang tuyến ngực thông tin về mật độ mô vú của họ. Điều này nhằm đảm bảo phụ nữ trên toàn quốc được cung cấp đầy đủ thông tin về nguy cơ liên quan đến mật độ mô vú, được khuyến nghị sử dụng các phương pháp chụp hình chẩn bịnh khác để giúp phát hiện ung thư. Phụ nữ cũng sẽ được khuyến khích thảo luận với bác sĩ về các bước tiếp theo phù hợp với tình trạng sức khỏe của mình.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.