Tạp ghi: Chị Tôi – Huy Phương
Sau ngày khi tốt nghiệp trường Bộ Binh và chọn một binh chủng Tổng Trừ Bị, anh đã làm lễ thành hôn với chị trước ngày ra nhận đơn vị mới. Từ ngày đó, cuộc chiến càng ngày càng sôi động, không mấy khi anh có mặt ở nhà. Chị sinh con, nuôi con khôn lớn, phụng dưỡng cha mẹ chồng, trong suốt gần mười mấy năm chiến tranh chưa một ngày ngưng nghỉ. Có lẽ đời sống vật chất chị không thiếu, nhưng làm vợ người lính chiến, chị đã trải qua những ngày dài không có chồng bên cạnh. Mặt khác, trong cảnh xa nhà, rày đó mai đây, nhiều lúc anh không giữ được lòng chung thủy với vợ, không những đã chia sẻ tình cảm với những người đàn bà khác mà đồng lương đem về nuôi gia đình cũng không trọn vẹn.
Tôi nghĩ là trong chiến tranh, loạn ly, người chinh phụ vốn đã gánh chịu nỗi khổ hơn người đàn ông. Dù gian khổ, kề cận sự chết chóc, người lính vẫn còn đơn vị, đồng đội. Trong những phút nguy hiểm trước làn đạn địch, anh còn được đồng đội bắn che chở cho anh tiến lên, cứu cấp anh khi thương tích. Còn chị, những ngày xa chồng vẫn chiến đấu một mình trong cái "pháo tháp" gia đình với những đứa con yếu đuối tìm sự che chở dưới đôi cánh tay của chị. Càng cao cấp bậc, anh càng xa nhà lâu hơn. Đã nhiều lúc chị được phép ra tìm thăm anh ở đơn vị, nhưng giữa nơi tiền đồn xa lạ bên những người bạn đồng đội của chồng, một ngày, hai ngày xa con, chị chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc và yên ổn . Đó là chưa nói đến nỗi lo canh cánh bên lòng, sợ mình bỗng chốc trở thành góa phụ như bao nhiêu người đàn bà trong thời chiến khác.
Rồi ngày 30 tháng 4/1075 ập đến với bao nhiêu nỗi kinh hoàng, anh trở về nhà với chị trong những ngày đầu tháng 5. Thời gian này quả thực có lâu hơn một hai tuần nghỉ phép của anh, nhưng chị có lòng dạ nào hưởng những ngày sung sướng bên chồng trong một thành phố hỗn loạn, căng thẳng, nghi ngờ và với nỗi tuyệt vọng lo âu cho một tương lai vô định, ảm đạm trước mắt.
Đầu tháng 6-1975, anh trình diện khăn gói vào tù. Chị đêm ngày lo sợ với những tin đồn chết chóc, xử bắn và tai nạn dọc đường của những người tù cải tạo. Trong nhà tù, anh đã không phải lo đến miêng ăn, dù không no đủ thì cũng cầm hơi, đến bữa đã sẵn sàng có củ khoai, chén cháo. Trong những ngày cam chịu cảnh tù đày, chung quanh anh, đất lạ mà người quen vì gần anh đều là những người từng vào sinh ra tử một thời, có đau khổ, ngọt bùi cũng có người chia xẻ. Anh sống và biết từng ngày một, tối lại tìm một giấc ngủ rồi tiếp tục cho ngày mai. Trong traị tù mọi người đều bình đẳng, từ chén bột cho tới cái cuốc cầm tay. Anh không có dịp nhìn cái đói, sự thiếu thốn của đàn con, trong khi chị mỗi ngày phải bươn chải cho con có miếng ăn, lo cho con đến trường, rồi còn nỗi lo nghĩ, săn sóc tới cha mẹ già. Tuy ở ngoài đời, trong một nhà mang tù lớn mang tên "xã hội chủ nghĩa", người đàn bà vò võ một mình, phải lo toan những chuyện cơm áo, thực tế hằng ngày giữa một cảnh chợ đời, giàu nghèo, sướng khổ chênh lệch, và bị kỳ thị trong chế độ mới. Trong một môi trường đầy cám dỗ, những người vợ tù một phút yếu đuối, lỡ sa chân vào những vũng bùn lầm lỡ, có thể suốt đời không bao giờ chị có thể gột rửa sạch trước dư luận đầy khắt khe, không một chút khoan dung...
Chị cũng không thể nào bỏ mặc anh trong nhà tù ở một miền núi nào đó trên đất Bắc. Chị nhịn ăn, nhịn mặc, đôi khi đau đớn bớt cả phần ăn của con để gói ghém, dành dụm có chút quà cáp thăm nuôi cho anh. Đôi lúc chị hoàn toàn tuyệt vọng, nếu không còn nghĩ đến đàn con và bổn phận của một người đàn bà, chị đã buông xuôi cho số phận với những viên thuốc ngủ để không bao giờ trở dậy nữa.
Nhưng rồi mỗi buổi sáng chị vẫn phải thức dậy với bổn phận một người đàn bà có chồng đang ở trong trại tù, với đàn con còn nhỏ dại, với bà mẹ già tựa cửa. Những ngày này, trông chị như người lạc hồn, gầy yếu, đen đúa vì suốt ngày lăn lóc ngoài chợ trời, nửa đêm còn bận rộn thu vén việc nhà. Một đôi dịp thăm nuôi, thấy cảnh chồng vất vả, khổ nhục trong trại tù, lòng chị chùng lại, chị muốn tha thứ cho anh tất cả những điều anh đã ăn ở không phải với gia đình trước kia và cam phận cảnh vợ tù, nuôi con và trả hiếu cho cha mẹ chồng.
Chị là người vợ tù đã sống qua mười năm giữa thành phố nghèo đói, đổi thay, nhưng không phải là không đầy cám dỗ. Chị thấy mình già đi rất nhanh, không còn có thời giờ nghĩ đến hạnh phúc riêng tư, thèm ăn ngon mặc đẹp, chỉ thấy tháng ngày tất bật những bổn phận phải lo toan.
Rồi anh ra tù, về trên bậc cửa đó, ốm yếu, già cỗi. Mười năm tù cũng đã lấy đi của anh tất cả năng lực, ý chí và cả sự khôn ngoan, mất cả những tinh anh của những tháng ngày cũ. Có anh bên cạnh, chị cảm thấy yên lòng hơn. Chị vẫn là vai trò chính yếu của gia đình, giờ đây chị cần sự có mặt của anh, như bầy con cần sự hiện diện của một người cha. Nhưng rồi hoàn cảnh xã hội không cho phép chị được gần gũi với chồng lâu hơn, chị lại đôn đáo lo cho anh tìm đường ra đi để cứu vớt cho đời anh và cho cả gia đình trước một tương lai quá mờ mịt. Chị lại xa chồng với nỗi lo âu đè nặng trong những ngày anh ở đảo và cả khi anh bước chân đến thiên đàng tự do với bao nhiêu nhọc nhằn, nhưng không phải là không có cám dỗ. Những năm sau đó, đời sống vật chất của gia đình có đôi phần thong thả, nhưng phần chị, một người đàn bà, qua chiến tranh và nghịch cảnh, không hề biết tới đoàn tụ, hạnh phúc là gì!
Cho đến một ngày...
Bây giờ tôi gặp lại anh trong quán cà phê trước cửa khu thương xá Phước Lộc Thọ, nếu ở San José thì anh sẽ là một trong những người đang tìm nước chiếu bí địch thủ trong một ván cờ tướng giữ sân lộ thiên của Lion Plaza. Tôi chưa hề tiếp xúc với chị, nhưng hình ảnh của chị vẫn thấy rõ trong ý nghĩ của tôi. Tôi thấy chị đứng trong bếp của một căn nhà ở thành phố Westminster, San José hay Houston, những thành phố tỵ nạn Việt Nam tiêu biểu tại nước Mỹ. Buổi sáng chị lo cơm nước cho cả nhà, lớp ăn lớp mang tới sở cho cả ba đứa con. Dưới chân chị còn hai đứa cháu ngoại luẩn quẩn với bà. Buổi tối ít khi chị lên giường trước mười giờ.
Thỉnh thoảng tôi mới gặp chị trong những ngày lễ cưới của gia đình, còn những lần khác chị vẫn là cái bóng mờ khuất trong cuộc đời, bên cạnh anh.
Bao nhiêu năm gặp lại chị, đương nhiên là tôi thấy chị già đi nhiều so với thời trẻ tuổi. Duy tôi còn nhớ tới mỗi nụ cười của chị, nụ cười quen thuộc ngày nào, phải chăng đã có phần héo hắt. Chị nói với tôi: "Chị là người hạnh phúc phải không em" Xưa kia chị cầu xin cho chồng khỏi đi đánh trận xa, được ở gần với chị. Khi chồng bị tù tội, chị mong cho chồng được ra tù. Rồi chị lại mơ có ngày được thoát ra khỏi vùng đất quê hương nghèo đói, bất công. Bây giờ chị đã có cả ba điều mơ ước ấy, vậy là chị hạnh phúc thât rồi."



