Hôm nay,  

Ý Thức Trách Nhiệm

30/04/201000:00:00(Xem: 5228)

Ý Thức Trách Nhiệm

Bìa “A Sense of Duty: Our Journey From Vietnam To America.” Photo: www.quangpham.net.)


Phạm Xuân Quang


(LTS: Trong ngày tưởng niệm 30-4, Việt Báo trích đăng một phần tác phẩm “A Sense of Duty: Our Journey From Vietnam To America” của nhà văn Quang Pham, tức Phạm Xuân Quang, với sự đồng ý của tác giả, Phần Việt dịch bởi LS Lê Công Tâm. Tác phẩm Anh văn này đã phát hành bản bìa mềm trong tháng này bởi nhà XB Random House. Có thể tìm mua ở các tiệm sách hay: www.quangpham.net.)
"Đối với một người đã từng sống và chiến đấu với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và chứng kiến sự nghiệp phục vụ xuất sắc của Quang Phạm trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ thì đây là một cuốn sách đặc biệt cảm động. Mọi người Mỹ phải đọc câu chuyện này để cảm nhận rõ ràng hơn những quyền tự do mình đang hưởng."
Tướng Thủy Quân Lục Chiến Anthony Zinni (Nguyên Tư lệnh Lực lượng Trung ương Hoa Kỳ CENTCOM - trải trên một vùng rộng lớn từ Trung Á qua Trung Đông)
Ngày 29 tháng 4, quân Bắc Việt tiến vào vùng ngoại ô quanh Sài Gòn và bắn pháo vào căn cứ không quân. Bố tôi và các người đồng ngũ phải trốn trong hầm tránh bom ở nhà. Rạng sáng hôm sau, một vài người rời hầm tránh bom và ra đi trên chuyến bay C-130 cuối cùng của Không Quân VNCH rời đất nước (máy bay đã phải cất cánh trên đường băng đầy mảnh đạn, họ bay đến căn cứ U Tapao ở Thái Lan). Họ nhìn thấy bố tôi lần cuối khi ông đang ở trong hầm và nói chuyện điện thoại với bà tôi. Hai bạn đồng ngũ khác của ông chạy ra Vũng Tàu và rời Việt Nam trên tàu của Hải Quân Mỹ.
Thiếu úy TQLC Hoa Kỳ Ted Murray kiểm lại quân số ngay sau loạt pháo kích của Bắc Việt. Hai người tử trận. Trung sĩ Charles McMahon, Jr., và hạ sĩ Darwin Judge là 2 quân nhân Mỹ cuối cùng tử trận tại Việt Nam.
Ông Murray nhớ lại buổi sáng định mệnh: “Chúng tôi có nhiều công việc giấy tờ phải hoàn thành trước khi ra đi. Có hai mẹ con người Việt Nam, bà mẹ tên Von và cô con gái tên Vân. Tôi đã bảo đảm với bà Von hôm 28 tháng 4 là mẹ con bà sẽ được đi trước cả khi chúng tôi đi. Nhưng đêm đó, khi phi trường bị máy bay Dragonfly A-37 tấn công, bà Von đã trở về nhà. Tôi cũng không biết là bà có cơ hội để quay lại hay không… Tôi chỉ là một thiếu úy, cố gắng làm hết sức mình, và tôi đã làm một số việc có thể gây rắc rối cho tất cả chúng tôi. Đó là cho nhiều người đi theo lên máy bay mà không “lệnh trên” của Bộ Ngoại Giao hay bất kỳ người nào. Tại sao ư" Bởi vì tôi có thể làm vậy trong lúc đó. Và đó là điều làm tôi cảm thấy vô cùng tự hào.”
Ông Murray đã chứng kiến, có lẽ là chuyến bay cuối cùng của Không Quân VNCH. Sáng 29 tháng 4, một máy bay chiến đấu AC-119 cố gắng lần cuối cùng, bay vòng chung quanh căn cứ Tân Sơn Nhứt, nã đạn vào các nhóm tiền quân Bắc Việt. Chiếc máy bay này đã đậu tại căn cứ vào đêm hôm đó, tiếp thêm nhiên liệu và đạn dược, trước khi bị tên lửa đối không SA-7 bắn trúng lúc 7 giờ sáng. Máy gay nổ lớn và có vài chiếc dù bung ra. Hai chiếc Skyraider của Phi Đoàn 514th và 518th (đội bay trước đây của bố tôi) cũng tham chiến. Một chiếc bị bộ binh bắn rơi, còn chiếc kia bị trúng tên lửa của SA-7. Những trận chiến cuối cùng này đã viết nên trang sử kiêu hùng của Không Quân VNCH, sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, và có một kết thúc buồn.
Hàng trăm máy bay của Không Quân VNCH bay qua Thái Lan, nhìn cứ như đàn châu chấu ở đường chân trời, các trực thăng đáp trên các mẫu hạm của Mỹ trên biển Nam Trung Hoa, chỉ để bị đẩy xuống biển lấy chỗ cho các chiếc khác. Tướng Kỳ, trung tướng Ngô Quang Trường*, và vài người khác bay trên trực thăng riêng của ông Kỳ, đáp trên mẫu hạm USS Midway vào buổi trưa. Sĩ quan phụ tá ông Kỳ, thiếu tá Hồ Đăng Trí, một trong các người bạn thân của bố tôi, không chịu ra đi; cả gia đình ông Trí đều ở lại Saigon.
* Trung tướng Ngô Quang Trường là chỉ huy lực lượng “I Corp,” được nhiều người Mỹ (kể cả tướng Abrams) xem là chỉ huy chiến trường giỏi nhất của Việt Nam, và “chỉ đứng sau tướng George S.Patton,” theo lời ông Kỳ.
Cái giá của tự do không còn là điều quan trọng nữa. Thiếu tướng hải quân Lawrence Chambers ra lệnh đẩy vài chiếc trực thăng Huey đáng giá $10 triệu xuống biển để cứu một gia đình Việt Nam. Tướng Bung Lý của Không Lực VN (cùng với vợ và 5 con) đã đáp được chiếc máy bay quan sát O-1 lên mẫu hạm USS Midway.
Phải đến 15 năm sau, một người VN khác mới có thể đáp trực thăng của mình lên một mẫu hạm của hải quân Mỹ, trong cương vị một phi công TQLC.
Bố tôi quyết định quay lại Saigon lần cuối để đưa bà tôi đi. Khi bà từ chối, bố tôi quay trở lại căn cứ Tân Sơn Nhứt. Khi lái xe xuyên qua Saigon, bố tôi nhìn thấy quân dụng vất bỏ trên đường. Quân nhân thuộc sư đoàn 18th, đơn vị cuối cùng đánh tại Xuân Lộc, đã rút lui về thành phố. Các người lính chỉ mặc thường phục, quân phục và giày đều bỏ lại trên đường. Các khẩu M16 bị ném xuống sông Saigon.
Bố tôi cũng vậy, đã đổi quân phục sang thường phục. Chạy vòng vèo trên đường, ông nhấn ga chiếc Lambretta, chạy nhanh hết mức. Tránh được bọn nằm vùng và các nhóm tiền quân Bắc Việt, bố tôi cuối cùng cũng đến được Tân Sơn Nhứt, hy vọng sẽ bắt kịp một chiếc máy bay nào đó.


Tuy nhiên, bố tôi không biết rằng sân bay đã đóng cửa sau khi bị không kích vì phi đạo không dùng được nữa. Các chuyến di tản của người Mỹ đã chuyển san khu IV, một khu sân bay trực thăng của Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ và DAO. Bài hát “White Christmas” của Bing Crosby, tín hiệu cho tất cả mọi người Mỹ phải di tản, đã được phát đi vài giờ trước đó. Bố tôi chạy được đến cổng Tân Sơn Nhứt và nhận ra vài khuôn mặt quen thuộc, nhưng giờ đang mặc quân phục của Việt Cộng. Ông đổi hướng, chạy về phía khu DAO, nơi trực thăng CH-53 Sea Stallion của TQLC Mỹ đã đáp vào lúc 3 giờ trưa. Bố tôi ngừng chiếc Lambretta và chạy về phía hàng rào, đứng chung với một đám đông đang hoảng loạn.
Giữa sự hỗn loạn và hoang mang này, một lính TQLC Hoa Kỳ mặc áo chống đạn, ấn nòng súng M16 vào ngực bố tôi, không cho ông bước vào khu sân bay của DAO. Bố tôi lùi lại và nhìn những người Việt Nam may mắn được cho vào. Một người lính TQLC đã cứu sống bố tôi vào 11 năm trước, và nay, một TQLC khác đã chận không cho bố tôi bước lên chuyến bay đi đến tự do. Rối bời và chán nản, bố tôi nhìn quanh, cảm thấy thất vọng khi nhìn thấy càng lúc càng nhiều người lính VNCH vất bỏ quân phục và ném súng xuống sông, để tránh bị Cộng Sản bắt giữ. Tối 29 tháng 4, bố tôi chạy xe trở về nhà bà ngoại để đón chờ định mệnh của mình.
Từ trưa hôm 29 cho đến sáng 30 tháng 4, ç của TQLC Hoa Ky va CIA đã đưa đi gần 7,000 người Mỹ, Việt Nam, và các quốc tịch khác, lên tàu hải quân đậu bên bờ biển. Chiến dịch “Frequent Wind” trở thành chiến dịch di tản bằng trực thăng lớn nhất từ trước đến nay. Lúc 4:59 phút sáng, trực thăng CH-46 với cuộc điện thoại mật danh là “Lady Ace 09” do đại tá Gerry Berry làm phi công, đã gọi cho mẫu hạm USS Blue Ridge. “Tiger, tiger, tiger” (mãnh hổ). Đây là thông báo cho biết Đại Sứ Martin đang trên đường rời khỏi Saigon. Ông Martin phải ở lại cho tới khi có điện thoại trực tiếp của Tổng Thống Ford cho phép ông rời tòa lãnh sự. Lúc 7 giờ sáng, ông Martin bay cùng với nhóm TQLC kế chót rời khỏi Saigon. “Anh có thể nhìn thấy các vụ bắn nhau. Quân đội miền Nam Việt Nam rút vào thành phố, và họ vẫn chiến đấu rất dũng mãnh, đặc biệt là tại phía Bắc thành phố,” ông Berry kể lại cho tôi nhiều năm sau đó. “Tôi nhìn thấy xe tank của Bắc Việt tiến vào thành phố. Sau 20 năm chiến tranh, nhìn thấy điều này thật là khó chịu.”
7 giờ 30 phút sáng, chiếc CH-46 bốc đi 11 lính TQLC cuối cùng trên nóc tòa lãnh sự Mỹ. Lúc 11 giờ trưa, 2 chiếc xe tank T-54 của Bắc Việt húc đổ cổng sắt dinh tổng thống. Một lính chạy vào dinh, và phất lá cờ đỏ của Cộng Sản trên ban-công phía trước. Tổng Thống Minh và nội các 3 ngày tuổi của ông chính thức đầu hàng với phóng viên chiến trường, đại tá Bùi Tín*.
Khi lệnh đầu hàng được phát trên radio, một vị tướng của quân đội VNCH, mặc quân phục, đứng tại khu tưởng niệm TQLC Việt Nam, giơ tay chào, và tự sát bằng phát súng vào đầu. Nhiều tướng lãnh khác của quân đội VNCH cũng tự sát. Lúc đó, các người thân trong gia đình tôi đã phải giấu súng của bố tôi đi, vì sợ rằng bố tôi cũng sẽ tự giết mình.
Bố tôi nhìn ra đường khi quân Bắc Việt tiến vào thành phố. Đầu óc ông hoang mang. Đời lính chiến kéo dài 20 năm của ông đã kết thúc. Hàng ngàn người lính đã hy sinh cho miền Nam, kể cả những người bạn thân của bố tôi, đã nằm xuống trong cuộc chiến. Một sự yên lặng kỳ lạ phủ lên Saigon vào tối hôm đó. Bố tôi ở lại nhà bà ngoại 1 tháng rưỡi, trước khi ra trình diện rồi bị bắt đi cải tạo cùng với các sĩ quan miền Nam VN khác. Đối với hầu hết người Việt Nam, chiến tranh đã chấm dứt. Nhưng với vài triệu người, tuy nhiên, sự chết chóc và chịu đựng vẫn tiếp diễn trong nhiều năm sau khi Saigon “giải phóng.”
* Vì sự kiểm duyệt gắt gao và thiếu dân chủ tại Việt Nam sau chiến tranh, Bùi Tín đã bỏ sang Pháp năm 1990. Trong hồi ký “Đi theo Hồ Chí Minh,” ông Tín kể lại ngày miền Nam đầu hàng. “Trong ngày 30 tháng 4, ông ấy (Nguyễn Văn Hảo, giám đốc Ngân Hàng Quốc Gia Miền Nam) nói rằng số vàng tích trữ của miền Nam (16 tấn), bị đồn là Tổng Thống Thiệu đã chuyển ra nước ngoài, thật ra vẫn đang nằm nguyên vẹn trong ngân khố Saigon.”
Ông Bùi Diệm, lãnh sự miền Nam Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhớ lại những ngày cuối cùng*: “‘Có thể nào, một quốc gia lớn lại hành động như vậy không"’ Đó là câu hỏi mà một người bạn đã hỏi tôi tại Saigon khi tin tức vào tháng 8, 1974 cho biết, Quốc Hội (Mỹ) cắt giảm viện trợ. Ông ấy là bạn học cùng trường với tôi khi còn ở miền Bắc và hiện là chủ cửa hàng, một người hoàn toàn không làm chính trị. ‘Anh là đại sứ,’ ông nói. ‘Có lẽ anh hiểu chuyện hơn tôi. Nhưng anh có giải thích được thái độ này của người Mỹ không" Họ muốn tới thì tới, đi thì đi. Giống như có một người hàng xóm đến nhà anh, gây đủ thứ rắc rối, sau đó nói là anh ta quyết định sai, và bỏ đi. Sao mà họ có thể làm vậy được"’ Đó là một câu hỏi đơn giản của người bạn chất phác. Nhưng tôi không trả lời được.”
“Người dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là giới lãnh đạo, trong đó có tôi, phải chịu trách nhiệm cao nhất về định mệnh của quốc gia, và nói thật, họ có rất nhiều điều đáng để hối tiếc và xấu hổ.”
Hai tuần sau khi Saigon thất thủ, trong đoạn báo cáo gởi Tổng Thống Ford (tiết lộ năm 2000), ông Henry Kissinger viết, “Khi nước Mỹ tham chiến vào những năm 1960s, họ đã đi quá giới hạn đến độ làm chấm dứt sự nghiệp và cả cuộc sống của giới lãnh đạo của nước đồng minh, và gây tổn thất lớn cho nền kinh tế Mỹ. Khi chúng ta nhận đây là “cuộc chiến của chúng ta,” thì đáng lẽ không nên để miền Nam Việt Nam phải tham gia cuộc chiến; và khi mọi sự trở thành “cuộc chiến của họ,” thì đáng lẽ chúng ta không nên nhúng tay vào.” Bản báo cáo này đã không bao giờ được gởi tới cho tổng thống.
* Theo hồi ký của ông Bùi Diệm: “Trong gọng kềm của lịch sử.”

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 2025 đang khép lại. Không tổng kết. Không lời ca tụng. Chỉ lặng lẽ như một người vừa đi qua nhiều mất mát — chẳng còn hơi sức nói thêm điều gì. Nhìn lại — năm 2025 không dạy ta cách thắng, mà dạy ta cách không ngã gục. Chúng ta sống sót — vì thói quen nhiều hơn hy vọng. Quen giá cả leo nhanh hơn đồng lương. Quen nhìn nhau bằng ngờ vực hơn cảm thông. Quen tin dữ đến sớm hơn cà phê sáng. Quen mỗi ngày đều phải chọn một nỗi lo để mang theo, bởi không ai ôm nỗi chừng ấy đổ vỡ vào lòng cùng lúc.
Con người ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có quyền được hạnh phúc và tạo ra hạnh phúc. Nó giống như dưới bầu trời có thể xảy ra trận không kích bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm, nhưng người Ukraine vẫn có thể khảy lên tiếng đàn Bandura. Một năm qua, ai trong chúng ta không mệt mỏi với những dòng chảy đầy bụi bặm, thoát ra từ một gánh xiếc nghiệp dư, mang theo những chất dơ của hận thù, ích kỷ, tham vọng, độc tài. Những ngày cuối cùng của năm 2025, hãy nói về Lửa Và Tro (Avatar: Fire and Ash), thưởng thức siêu phẩm giả tưởng của James Cameron, để cùng khép lại một năm ngộp thở của nước Mỹ, và cùng chiêm nghiệm một điều mà nước Mỹ đang cố tình lãng quên.
Mùa Giáng Sinh này, khi chúng ta chúc nhau an lành, hòa bình và thiện chí, có lẽ ta biết rõ hơn bao giờ hết, mình sẽ là người mở cửa quán trọ hay là Herod của thời đại mới? Khi đó, chúng ta sẽ hiểu — Chúa ở bên ai trong mùa Giáng Sinh này.
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.