Hôm nay,  

Khi Cuba Có Dầu Hỏa

06/11/200800:00:00(Xem: 12090)

Khi Cuba Có Dầu Hỏa

Tuấn Minh (VNN)
Trong số bốn nước còn lại trên thế giới vẫn theo chế độ cộng sản (Cuba, Bắc Hàn, Trung Cộng và Việt Cộng) thì quốc gia ở Nam Mỹ là nước bị Hoa Kỳ chơi ép nhất, mà lý do để biện minh nhiều phần thiếu tính thuyết phục. Thật vậy, Hoa Kỳ đã mở cửa và hợp tác mạnh mẽ từ lâu với Trung Cộng chỉ vì quyền lợi kinh tế cấp thời, ham đồ với giá rẻ mà nhiều khi không chịu nghĩ đến cái hại về lâu dài đối với đối thủ đáng ngại và có thể dễ dàng quay sang đối đầu. Sau đó, Hoa Kỳ cũng đã hợp tác với CS Việt Nam, kẻ thù cũ trong cuộc chiến hơn ba thập niên về trước, mà quyền lợi thu về cho Hoa Kỳ thật ra cũng chẳng đáng là bao, ngoại trừ yếu tố được nhiều người nói đến là mong giữ được một đồng minh mới để kềm chân Trung Cộng trong tương lai khi cần thiết. Riêng với Bắc Hàn thì Hoa Kỳ không có quyền lợi cụ thể nào hết, cũng như không có sự lo sợ nào cho sự an nguy của mình, ngoại trừ nhiệm vụ hiện hữu để bảo đảm cho sự an ninh của hai đồng minh là Nhật Bản và Nam Hàn. Ấy vậy mà cuối cùng dường như Hoa Kỳ cũng sẵn sàng nới lỏng sự kềm kẹp với quốc gia này, chẳng hạn như sắp loại bỏ tên ra khỏi danh sách các nước khủng bố để mở màn cho giai đoạn bình thường hoá quan hệ ngoại giao.
Nhưng với Cuba thì khác. Hoa Kỳ, dưới thời chính quyền Bush, vẫn cương quyết giữ vững lập trường "chống Cộng đến cùng", quyết giữ vững chính sách cô lập ngoại giao và cấm vận kinh tế, khởi đi từ năm 1962 sau vụ tấn công ở Vịnh Con Heo nhằm lật đổ Fidel Castro bị thất bại, cho dù đã có nhiều vị dân cử phe Cộng Hoà đã không còn ủng hộ chính sách này nữa. Và thật ra thì ảnh hưởng của khối di dân gốc Cuba ở Miami cũng không còn mạnh để tác động lên chính sách toàn quốc của Hoa Kỳ. Vì giống như các khối di dân khác, nếu như thế hệ cao niên vẫn còn sắt son với lý tưởng chống chế độ cộng sản ở Cuba và nuôi mộng một ngày nào đó lật đổ được thể chế độc tài Castro thì thế hệ con em của họ không còn quan tâm đến vấn đề đó nữa. Ấy là chưa kể dân gốc Cuba không còn chiếm một đa số đáng kể tại tiểu bang Florida, và những di dân gốc Nam Mỹ khác không hẳn chia sẻ cùng quan niệm chống lại Cuba như họ.
Từ vài năm qua, đã có nhiều tiếng nói kêu gọi Hoa Kỳ nên thay đổi chính sách cứng rắn đối với Cuba để đẩy mạnh các phong trào hay dịch vụ giao thương hoặc du lịch với hai nước, được coi như là một phương tiện hữu hiệu và êm dịu nhất để giúp thay đổi bộ mặt của một chế độ độc tài, tương tự như quan niệm của các chính quyền Mỹ đối với Trung Cộng và Việt Cộng. Nhiều vị dân biểu và nghị sĩ Cộng Hoà đã đệ nạp những dự luật nhằm cho phép các hãng dầu của Mỹ được phép làm ăn với Cuba, ít ra là có thể khai thác ngoài khơi đảo quốc này để mong tìm được những nguồn dầu hoả, nếu có, sẽ dễ dàng phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ to lớn của Hoa Kỳ. Trong cuộc vận động tranh cử hiện nay, không thấy hai vị ứng viên có lên tiếng về chuyện này, nhưng nhiều người nhận định rằng một vị tổng thống phe Dân Chủ như ông Obama có lẽ sẽ dễ dàng lắng nghe những tiếng nói để có thể thay đổi chính sách. Nhất là trong tình hình mới đây khi hãng dầu quốc doanh Cubapetroleo, viết tắt là Cupet, vừa đưa ra một tuyên bố khá động trời là khối lượng dầu hoả ngoài khơi Cuba được ước tính lên đến 20 tỷ thùng. (Để dễ so sánh, Hoa Kỳ có khối lượng dầu hoả vào khoảng 29 tỷ thùng).
Từ nhiều thập niên qua, người dân Cuba nhìn về hướng bắc để chỉ mơ tưởng về một làn sóng có thể đẩy đưa những con thuyền mong manh đưa dân tị nạn đến được bến bờ Florida của đại lân bang ở phía bắc là Hoa Kỳ để mong hưởng được một đời sống tự do và tốt đẹp hơn. Nhưng gần đây, họ có thể bắt đầu mơ tưởng về một niềm tin mới, có thể giúp đem lại trù phú cho đất nước mình, khi những nhà địa chất học đưa ra những bản thẩm định mới cho rằng có khoảng từ 5 đến 10 tỷ thùng dầu đang nằm dưới lòng biển ngoài bờ biển Cuba về phía tây bắc. Nếu điều này là hiện thực, thì biết đâu nó sẽ giúp cho Cuba, quốc gia duy nhất trên bán cầu này còn theo thể chế cộng sản, thoát khỏi vòng lệ thuộc vào các nước có nhiều dầu hoả như Liên Sô (lúc xưa) hoặc Venezuela (ngày nay). Và từ đó có thể nhanh chóng vượt ra khỏi vòng nghèo khó.
Thật ra thì Cuba đã có dầu hoả từ lâu. Nhưng Cuba chỉ sản xuất được mỗi ngày cỡ 60,000 thùng, nhưng nhu cầu tiêu thụ mỗi ngày lại lên đến 150,000 thùng. Vì thế cho nên Cuba lúc nào cũng cần phải nhập cảng dầu thô, hay đúng hơn là cần sự tiếp tế vì nền kinh tế nghèo nàn của Cuba không đủ sức để trang trải chi phí mua hàng nhập cảng. Lúc xưa vai trò của đồng minh hảo tâm là Liên Sô, nhưng sau này là Venezuela, mỗi ngày cung ứng với giá rẻ cho Cuba khoảng 100,000 thùng.
Vào năm 2004, Cơ quan giám định địa chất của chính phủ Mỹ (US Geological Survey, USGS) đưa ra con số thẩm định đầu tiên từ 5 đến 10 tỷ thùng, ước lượng nằm ở vùng tây bắc ngoài khơi, thường được gọi là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone, EEZ). Nhưng trong một cuộc họp báo vào tuần trước, hãng dầu Cupet đã đưa ra con số thẩm định mới to lớn hơn nhiều là 20 tỷ. Ông Rafael Tenreyro, giám đốc ban thăm dò, còn nói với các phóng viên rằng "đây không phải là chuyện đùa". Ông cho rằng bản thẩm định mới được dựa trên những nghiên cứu mới nhất để so sánh về những điểm tương đồng giữa các mỏ dầu tại Cuba với các mỏ dầu khác trong vùng Vịnh Mễ Tây Cơ. Ông nói: "Chúng tôi có nhiều dữ liệu hơn USGS," nhưng không đưa thêm những bằng chứng cụ thể nào khác.
Nhiều người đã tỏ ra hoài nghi về con số quá lạc quan này, và cho rằng đó có thể là một mánh khoé để kích động sự tò mò của các hãng dầu hoả muốn đầu tư trở lại, giữa lúc mà giá dầu đang tụt dốc gần đây có thể khiến nhiều người bớt hăng hái. Cuba càng ngày càng mong muốn có nhiều hãng dầu quốc tế chịu nhảy vào để đầu tư trong các công trình thăm dò và khai thác rất tốn kém trong bước đầu. Nhất là trước áp lực hiện nay của giá dầu thô giảm, sẽ khiến cho đồng minh Venezuela bị mất bớt lợi nhuận và sẽ khó khăn hơn để giúp đỡ hết mình cho Cuba. Đó là nhận định của ông Jorge Pinon, một chuyên gia nghiên cứu về dầu hoả tại Cuba hiện đang làm việc tại Đại học Miami, khi cho rằng phía Cuba đang bị áp lực để tìm cách đẩy mạnh chương trình phát triển tài nguyên dầu hoả trong nước.


Nhưng cũng có nhiều chuyên gia độc lập khác đưa ra những nhận định thuận lợi khác. Ông Chris Schenk, trưởng toán điều hợp của USGS tại vùng biển Caribbean đã làm cuộc thăm dò vào năm 2004 và đưa đến con số từ 5 đến 10 tỷ thùng, cũng công nhận rằng các chuyên gia địa chất học của Cuba "rất xuất sắc". Tuy vậy, ông cũng nói thêm rằng "chúng ta mong muốn nhìn thấy thêm nhiều dữ kiện nữa" và lấy làm tiếc rằng tình hình cấm vận hiện nay, cộng thêm những chính sách cô lập thông tin của Cuba đã khiến cho nhiều chuyên gia không thể hội thoại nhiều hơn để tìm hiểu. Một chuyên gia khác là ông Jonathan Benjamin-Alvarado, một phân tích gia làm việc tại trường Đại học Nebraska, đã nhận định: "Nếu đúng là 20 tỷ thùng, thì quả là một sự chấn động có khả năng thay đổi cục diện." Tuy không hoài nghi về khả năng của các nhà địa chất học ở Cuba, nhưng ông Benjamin-Alvarado cho rằng con số 20 tỷ là quá đáng: "Tôi tin tưởng họ là những chuyên gia nghiên cứu về dầu hoả, và những con số đọc được từ các cuộc đo lường về địa chất có thể đúng, nhưng cho đến khi nào chúng ta thấy được những con số khác, từ những chuyên gia độc lập khác, thì những con số mới này vẫn còn bị hoài nghi."
Tuy vậy cũng đã có vài hãng dầu quốc tế bắt đầu nhảy vào để thử thăm dò. Đầu tiên là công ty năng lượng Repsol-YPF của Tây Ban Nha đã ký một hợp đồng liên doanh với Cupet, và sẽ bắt đầu thăm dò khoan dầu tại vùng EEZ vào đầu năm 2009. Tiếp đến là các công ty năng lượng khác như StatoilHidro của Na Uy và Oil & Natural Gas Corp. (Công ty Dầu và Khí) của Ấn Độ. Công ty năng lượng quốc doanh của Venezuela là Petroleos de Venezuela lại không được xem là sẽ đóng vai trò quan trọng vì không có khả năng và kinh nghiệm trong lãnh vực khoan dầu ngoài biển sâu. Các hãng dầu của Trung Cộng cũng có thể ngắm nghé đến trong tương lai, nhưng cho đến nay chỉ chú trọng vào việc khai thác dầu hoả trên đất liền tại Cuba. Chính phủ Cuba hiện đang có những thảo luận quan trọng với hãng dầu Petrobras của Ba Tây, là công ty vừa mới khám phá kho dầu lớn ngoài bờ biển gần thành phố Rio de Janeiro. Nếu những cuộc điều đình này đi đến thoả thuận, thì Petrobras sẽ là một bạn hàng hợp tác quan trọng đối với Cuba trong ngành khai thác dầu ngoài khơi.    
Tuy vậy, tất cả những hợp đồng này cũng chỉ mới chiếm 1/4 diện tích to lớn khoảng 43,000 dặm vuông của vùng EEZ mà Cuba muốn khai thác. Hầu hết các chuyên gia đều nhận định rằng lý do chính khiến các công ty năng lượng ngần ngại nhảy vào thị trường Cuba vì những khó khăn cơ bản và hạ tầng cơ sở một khi muốn làm ăn tại đây. Bởi vì nếu muốn nhập cuộc, các công ty này phải đầu tư rất nhiều từ vốn liếng, cơ sở, dụng cụ, và kiến thức cùng với nhân viên chuyên môn. Hơn nữa, địa thế của Cuba mỗi năm dễ gánh chịu nhiều trận cuồng phong thổi vào với sức tàn phá kinh khủng cũng khiến cho việc khai thác không dễ dàng và êm thắm. Đó cũng là lý do khiến cho công ty năng lượng Sherritt của Gia Nã Đại mới đây cũng đã rút ra khỏi giao kèo khai thác tại Cuba.
Theo chuyên gia Benjamin-Alvarado thì quốc gia duy nhất có thể cung ứng vốn liếng và khả năng chuyên môn hữu hiệu nhất để khai thác dầu hoả tại bờ biển Cuba không ai khác hơn chính là Hoa Kỳ. Nếu như Cuba có thể chứng minh một cách khá xác tín về kho tài nguyên lên đến 20 tỷ thùng để khai thác, thì việc thu hút các quốc gia đầu tư khác như Ba Tây cũng không phải là điều khó. Câu hỏi được đặt ra là trong trường hợp đó, liệu Hoa Kỳ có sẵn sàng tháo gỡ hàng rào cấm vận để nhập cuộc hay không" Ông Kirby Jones, chủ tịch của Hội Mậu Dịch Hoa Kỳ và Cuba, một trong những người chống đối chính sách cấm vận, cho rằng các chuyên viên của Cupet đã chứng tỏ khả năng chuyên môn đáng tin cậy của mình trong quá khứ, và do đó ông có thể tin rằng những con số thẩm định mới này không có gì là quá đáng. Trong trường hợp đó, câu hỏi đặt ra cho Hoa Kỳ, theo ông Jones, sẽ là: "Hoa Kỳ sẽ trả giá như thế nào nếu như tiếp tục chính sách cấm vận" Nó sẽ làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của Cuba và khiến cho Hoa Kỳ sẽ không còn ảnh hưởng đáng kể nữa."
Điều này có thể đúng, nhưng trong tương lai gần, theo nhận định của nhà báo Tim Padgett, trong một bài phân tích đăng trên tạp chí Time đề ngày 23-10-08, thì những con số khám phá mới tại Cuba có thể khiến cho áp lực muốn khai thác dầu hoả ngoài khơi Hoa Kỳ sẽ càng tăng cao. Phó tổng thống Dick Cheney và nhiều viên chức cao cấp khác trong chính quyền Bush thường biện minh cho những tài nguyên mới khám phá tại Cuba là lý do chính đáng để mở rộng việc khai thác dầu hoả tại bờ biển của Mỹ. Những cuộc thăm dò dư luận gần đây tại những tiểu bang dọc bờ biển như Florida cho thấy là số đông dân chúng sẵn sàng ủng hộ đường hướng này, tuy rằng những nhà bảo vệ môi sinh vẫn tiếp tục chống đối. Cùng lúc đó, những người ủng hộ biện pháp cấm vận thì tiếp tục vận động tại Quốc Hội để thông qua những dự luật, nếu thành hình, có thể trừng phạt bằng cách từ chối chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ cho các viên chức điều hành các công ty năng lượng làm ăn tại Cuba. Lập luận của phe này là: nếu như chính quyền Cuba càng có thêm tiền thu về từ dầu hoả, thì chính quyền đó sẽ càng ít bị áp lực hơn để đẩy mạnh các chính sách cải tổ theo mô hình tự do dân chủ.
Nhận xét này có lẽ đúng. Tuy vậy, mối tương quan giữa hai lân bang Hoa Kỳ và Cuba xem chừng như vẫn còn giậm chân như trong thời kỳ xung đột của Chiến Tranh Lạnh. Và vì thế cho nên, cho dù có khám phá hay không con số 20 tỷ thùng dầu ngoài khơi Cuba, thì ở cả hai thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Havana, sự tương quan này cũng chưa chắc thay đổi dễ dàng hoặc nhanh chóng.  
Tuấn Minh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.