Hôm nay,  

Ngô Nguyên Nghiểm: Phận Người Đong Đưa Theo Từng Hạt Bụi Sắc Không Trong Trăm Năm Ngàn Năm

29/06/201300:00:00(Xem: 6034)
Dấu hành trình của Ngô Nguyên Nghiểm đã kéo dài từ nhiều năm qua, thoắt chốc gần năm mươi năm, sinh mệnh của một đời người, nổi trôi dật dờ theo cùng mệnh nước, hệ lụy của một dân tộc. Nhà thơ vẫn sống thở bình thường như một thiền gỉa đạo hạnh, một người hiểu được sự đổi thay thường hằng của thế gian là lẽ tất yếu. Một thiền sinh tất tả xuôi ngược góp nhặt những hương hoa cuả bốn phương đổ về hội tụ, như những ánh sao đêm lạc loài mở hội nghênh trăng. Trong vô số những kỳ hoa dị thảo chỉ đợi nhân duyên là tỏa ngát hương nồng.

Chúng ta có “Điệu buồn của chúng ta” của Hà Thúc Sinh, “Loài cây nhớ gió” của Lâm Chương, Nguyễn Thành Xuân, “Nam Hoa”,”Lên đồi hứng bát trăng vàng”, “Thơ tình Trịnh Bửu Hoài” của Trịnh Bửu Hoài, khi chàng thư sinh này vào tuổi đôi mươi, đầy sức sống và sáng tạo. Những tác phẩm ấy được hình thành nếu không có bàn tay họ Ngô tận tụy đóng góp, chắt chiu chăm sóc.

Chúng ta thường nghe câu” Địa linh sanh nhơn kiệt”. Điều đó hẳn không ngoa. Thơ Ngô Nguyên Nghiểm như một người hành giả đi dong ruổi trên bụi thế gian. (Anh đã cho ra mắt cuốn “Người hành gỉa và khúc trường ca sinh tử” vào năm 1974). Trong màu mắt anh đắm chìm những hoài nghi, thấm đẫm phận người gỉa tạo, sự bao la vô tận của vạn vật. Phải chăng cảnh trí Thất Sơn đã gieo vào tâm não anh những kỳ bí của núi non, những huyền thoại của rừng thiêng, những miếu tự, đền thờ lúc nào cũng không thiếu vắng người vọng bái.

Trong cái tịch mịch của một sớm mai gió lộng, người về như một cành mây, tác gỉa trầm lắng:

“Đất cũ vẫn còn ngàn sao lấp lánh
Ngựa vỡ nằm theo tay
Ta như bãi cỏ đêm dài
Ngó trời mơ đôi cánh nhỏ
Nhập sầu lên tương lai”
(Ta nằm như mặt nước khe- Trăm năm ngàn năm)


Những xúc cảm luôn tràn ngập tâm hồn như mây bay như gió cuốn, như dòng sông Cửu uốn quanh nơi anh cư trú, như khí thiêng Bảy Núi ngàn năm mây phủ, chập chùng những nét phù sinh. Những yếu tố ấy lúc nào cũng thôi thúc, như tiếng kêu thức tỉnh con người hủy diệt lòng đố kỵ,tham sân si,một sự hướng thượng hồi đầu trong cuộc nhân sinh đầy bảo động, thịt da chờ phân rửa từng giây phút.

Hiện hửu và phân hủy, một chu trình mà theo anh đó là nỗi ám ảnh trầm mặc không lối thoát. Khuôn mặt anh cũng đã nói lên điều đó -mênh mông, nghiêm tỉnh dù trong anh lúc nào cũng nở nụ cười giao tiếp thế nhân.

Thơ anh bay cao vút theo khoảng không gian mù mịt, cái khoảng không gian của thời mới khai sanh lập địa, có những sinh vật manh nha hiện diện thì cũng biết đâu có những sinh vật khác vô hình chung biến mất. Một ma trận của tạo hóa tác động lên vạn vật trong đó có cả con người:

“Thì cũng như con nước
Lên xuống quanh thủy triều
Thế sự càng hư ảo
Thiện địa càng tịch liêu
.
Chau mày nhìn cố xứ
Đau lòng theo mây bay
Cúi đầu bạc mái tóc
Ngẩng đầu trắng cơn say…
(Nghe tiếng chim reo chợt nhớ quê nhà)


Mang tâm thức u uẩn quanh mình, nhà thơ đi đứng trên mặt đất lại ngỡ bay lững lơ, bay la đà trong cõi phù sinh. Chàng hết bay rồi bơi theo màu thời gian, bởi thời gian không chết, chỉ có sinh vật hửu hình mới hủy diệt theo bụi sắc không.Kìa hãy trông cây thốt nốt của vùng Tri Tôn- Xà Tón, của Tịnh Biên trải dài đến vùng đất của vương quốc Phù Nam cũ, đã phải suy tàn và mất dấu. Nhưng cây thốt nốt vẫn tồn sinh, hương vị ngào ngạt tạo nên sức sống con người. Mấy trăm năm, mấy ngàn năm ai biết, thốt nốt vẫn là biểu tượng của xứ Chùa Tháp:

“Hình như tôi bơi suốt tháng năm
Lá thốt nốt chưa che đầy thân thể
Làm kẻ dị hình trong nhân thế
Tâm hồn treo ngược giữa cành cây”


Chàng muốn biến thành cỏ thành cây, thành giun dế cốt để thấu hiểu sự hưng phế của vũ trụ. Cát đá vô tri sao hiểu được lòng chàng, nhiều lúc nhìn đời sao muốn khóc, nhưng nếu khóc được chắc hẳn chàng sẽ vơi nhẹ mối ưu tư và chìm vào giấc ngủ của Trang Tử ngày xưa chăng?.

“Thì ra, thiên địa cũng vô duyên
Khiến gió thổi lá rơi trên khổ hạnh
Chợt đứng giữa tinh cầu lồng lộng
Đèn nhà ai vừa tắt lạnh bơ vơ…”
(Đèn nhà ai vừa tắt lạnh bơ vơ)


Đây là bài thơ đẹp, tình cảm nhà thơ trải dài thanh thoát, ngôn từ văn chương dễ tiếp nhận so với những bài khác của tác gỉa đầy chất siêu hình, đôi khi ẩn chứa những thông điệp sâu xa tôn giáo như nhà thơ Trần Tuấn Kiệt đã nhận xét:

“Gía trị tinh thần của Ngô Nguyên Nghiễm đặt nền tảng siêu hình học hiện đại, cũng là nền tảng hóa giải mọi mâu thuẩn trên đời, để cho thơ bình yên chảy xuôi trọn một giòng của nó, qua bến bờ vạn đại…” (TTK nhận định về thơ NNN trang 969 trong Người đồng hành quanh tôi tập I).

Những từ “bờ kênh dĩ vãng, kẻ dị hình trong nhân thế, tâm hồn treo ngược, lắng ảo gíac xuống chín tầng giun dế, tâm thức hoang phế, cơn say qúa tải, hải đăng lu,con sóc ngậm đuôi mình trong suốt kiếp”…đã tạo cho bài thơ vô cùng thi vị …

Thân phận con người được nhà thơ nhìn ngắm qua nhiều lăng kính, nhiều hình thái khác nhau. Sự liên tưởng ấy chảy tràn trong tâm hồn tác gỉa. Bất cứ hành động nào, suy nghĩ gì, tác gỉa cũng bắt chụp được một cách linh hoạt. Sự cảm thông tột cùng đó nếu không đến bằng trái tim, qua sự “biết, hiểu” nhau một cách chân thành:

“Ban, ta, dựa gốc cây
Khác gì con chim nhỏ
Giữa rừng người không quen
Chực chờ như mảnh hổ”
Hay :” Hồn bạn trắng như gương
Nên ta buồn biết mấy
Bởi ngựa chạy đường trường
Ngổn ngang nhiều cạm bẩy”


Toàn bài có những câu nhẹ nhàng như hạt sương mai buổi sáng, như ánh nắng chiều vàng thoi thóp tắt.” Bạn sống như vầng trăng- Thanh tao như sương nở- Ta hóa thân loài hoa- Dâng hương cho trăng tỏ”.

Hết hóa thân làm cỏ, nay lại làm hoa, tác gỉa sẽ hóa thân làm gì, chúng ta hãy trông chờ.

Câu thơ tuyệt diệu: “Ôm nhau như uyên ương- Cũng có ngày xa cách”. Chân lý vi diệu đó cũng nằm trong chu kỳ sinh tử của đời người thôi. Tình bạn đã thăng hoa vi vút đến vậy sao?.

Đoạn mở đầu cả hai cùng chia nhau rót rượu, cảnh trí quán bên đường, mắt thấy, tai nghe sau cùng con tim lên tiếng, những suy luận quanh đời, cảm xúc dâng tràn

- “Thương bạn không cạn lời”, một tiếng kinh cầu gan ruột của chàng xin lưới đời hãy buông tha bạn-”Chụp xuống hồn chim nhỏ”.Chúng ta không tình cờ quen nhau mà chắc hẳn có một lý nhân duyên nào đó, trong vô vàn sát na hội tụ. Như bóng và gương, như bạn và ta hay như ta và em, trong huyễn mộng có một ta là thực ? . Ẩn hiện, chập chờn đối bóng. Ôi!- hồn thơ chàng đã lên cao trào tột độ, chàng nói hay rượu nói- chất ngất cơn say:

” Ngọn bút như tiếng đàn
Ta khảy vào qúa khứ…”
(Ngồi uống rượu với bạn trên đường vắng ngắm người ngắm mình)
.

Chúng ta nhận thấy tác gỉa ảnh hưởng đạo pháp rõ rệt qua bài “Niệm kinh tim, bỗng nghe mấy giọt đàn khách bạc đầu nghiền ngẫm”. Tiếng đàn như một vật xúc tác chuyển giai điệu đến tác gỉa bằng thính giác, trái tim (tâm) chàng rung động truyền cảm gíac xuyên suốt châu thân qua tri giác. Tác gỉa không khéo sẽ bị “tẩu hỏa nhập ma” vì trong khi niệm kinh mà con tim không định, không có cái không cần có.

“Âm thanh từng giọt có không..

ừ thính giác thật tình vô vọng
Ừ ngũ quan lẽ nào chẳng động
Lửa, từ tâm hoả cháy thiên thu
Đất,nước hay nguyên khí hoang vu “
(NKT, BNMGĐKBĐNN).


Tấm thân tứ đại- đất,nước, gió, lửa vẫn chảy hoài trong hình tướng con người.

Chàng đã nhập diệt chăng mà tâm hồn lăn lóc trong cõi mù sương thanh tịnh?. Chàng đã lâng lâng thoát tục chăng khi ngạo bước trên tinh cầu gía lạnh.Rừng mênh mông những cây gìa cổ thụ, suối nghe chim hót, hoa ngát lừng hương, một dạng của “Hoa khai kiến Phật”?. Nhưng không, chúng ta hãy nghe chàng thê thiết:

“Thì ra, dưới ngôi cổ mộ có hồn hoang nằm đó. Trên mặt đất lưu ly, hoa nở đủ sắc màu, nên thơ như bài cổ thi Nôm ghi nghiêng dài trên bia tự.”

(Thiên thu một cõi đi về).

Âm hưởng của bài thơ khiến ta nhớ đến bài “Thăm mả cũ bên đường” của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tản Đà cảm khái nhìn nấm mộ hoang mà hồn thơ đòi đoạn khóc:

“Ngoài xa trơ một đống đất đỏ
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
……………
Suối vàng sâu thẳm biết là ai?
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó
Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!.


và Ngô Nguyên Nghiểm cũng là khách giang hồ, cũng người đồng điệu, cũng khách nòi tình, nên chuyện xót xa đồng cảm là lẽ thường hằng, có khác chăng là họ Ngô có phảng phất hương vị Thiền, mang máng chút buồn thoát tục của Lão Trang.

“…Hồn ở đâu bây giờ, mà mây bay đầy ngõ, áo tài hoa treo ngược sau hè. Và có bầy chuồn chuồn bay ngang qủa trứng hoàng hôn làm lung linh một cõi đi về….”.

Một bài hành về Tây Phương chăng?.Quang cảnh lưu ly của muôn ngàn ánh sáng, kỳ hoa dị thảo bừng khoe sắc hương, vàng hoa lót đầy tường, ngõ bước. Chim đạo hạnh, chim của cõi Trời huyền diệu- Khổng tước:

“Trên cây bàng cao
Chờn vờn khổng tước
Gáy vén bình minh
Sương vàng óng ướt
………
Ẩn hiện trời Tây
Đền thiêng lồng lộng
Vạn nét kỷ hà
Chan hoà với nắng…”
(Gốc quế bát vàng)


Như phần trên đã giới thiệu về hai chữ hóa thân, đến đây chúng ta lại bắt gặp chàng hóa thân một lần nữa. Nhà thơ, quẩy gót ngao du, túi mang thơ kinh tự,hát khúc trường ca sinh tử, độc hành tìm đến ánh đạo vàng, phương trời của chàng tàng dẫm bao ngàn thử thách, có khi là cỏ úa, rừng hoang; có khi là mộ hoang, ngạ qủy bơ vơ kêu khóc. Chàng vẫn một câu thần chú Ba La Mật Đa chăng?. Lầm lũi đi, lòng chàng rất “Bồ Tát” muốn chia sẻ cô đơn, bất hạnh, đau khổ, tai kiếp của bao người. Từ một người bạn hồn nhiên

- “Thấy bạn càng hồn nhiên- Nụ cười như hoa đỏ” đến –”…Ta hoá thân vào cây cỏ ngậm câm, trái tim là đáy giếng sử thi, thần phách là chiếc nỏ thần cổ tích, thì có bao giờ bày tỏ, chau mày rên rỉ trước mặt đá vô tình của vạn đại thiên nhiên…” (Hòa âm).

Chàng muốn đổi xác mượn hồn, giao cảm cùng vạn vật u linh, nghe thời gian chuyển động, bất chợt xuất hiện ma quái quanh mình, lại thấy mình bạc tóc. Phù thế hay phù sinh trong hoang vu kiếp sống:

“Lẽ nào mồ chưa lạnh
Lãng đãng trận vàng bay
Mà tơ trời tứ phía
Đợi gió về so dây
Hốt nhiên người trắng tóc
Đau đáu điệu sắc cầm
Có qủy thần hiu hắt
Chờ ngàn kiếp rồng ngâm.”
(Hóa thân)


Chàng đang chờ một Hội Long Hoa?

Lời thơ như một bài kinh tụng niệm, một khúc chiêu hồn. Kẻ ở tiễn người đi, những bằng hữu thân quen đã xuôi tay về miền qúa khứ. Trong mông lung của màn sương, của khói hương quyện vào đôi khi là bóng đêm câm nín, tác gỉa thành tâm nghiêng rót bầu rượu tiễn đưa bởi:

“Thế gian bàn cờ độc đạo
Xe ngựa hí mộng ảo
Tin rằng, khắp nẻo đường trường
Dấu chân in nhẹ như sương
Dấu chân một thời phiêu bạt
Bụi hồng quắc quay ảo giác
Mịt mù lạc bước càn khôn”
(Trăng khuyết)


Sống và chết theo cái nhìn của tác gỉa chỉ như một cuộc hí trường, cánh màn nhung khép mở tùy theo nghiệp chướng, mỗi người có một định số riêng biệt. Trong niềm an ủi bạn vẫn còn chút ưu tư:” Bạn ta hồn phách linh thiêng- Có không một nơi cư trú?”. Nỗi quan hoài ấy được tác gỉa thể hiện qua tiếng mõ công phu một cách tận tụy, trì chú rất chân thành đến nỗi đau lời nhật nguyệt, dù biết rõ rằng “trò chơi cút bắt có không” như vầng trăng khi tròn khi khuyết. Cõi riêng lòng chàng vẫn mang mang thiên cổ sầu:

“Ừ, trăng tròn rồi trăng khuyết
Hồn ta trầm cảm bao giờ?
Âm thầm vịn cửa thiên thu
Nhảy suốt dặm trường ly biệt…” (Trăng khuyết)


Hơi thơ dồn dập, thôi thúc theo nhịp mõ:” Bạn ta gõ mõ nhiếp thần- Thầm lặng ngàn kiếp vô sinh…” đã tạo cho bài thơ hòa điệu nhịp nhàng theo lời khấn nguyện. Tác gỉa sử dụng thể loại sáu chữ rất nhuần nhuyển và thành công. Thơ sáu chữ dường như là điểm nổi bật của tác gỉa, hình thức thơ này có thể là phương cách diễn đạt ý tưởng thanh thoát, thuận lợi theo dòng tư tưởng, theo con tim.

Trong “Trăm năm ngàn năm” có nhiều câu thơ rực rỡ sắc màu, những thanh âm huyền hoặc, thần trí người đọc cũng rơi vào trạng thái lâng lâng, thoát tục:

“Đời chỉ là hạt cỏ
Nép dưới cầu thiên thu
Nhiều khi ngắm hoa nở
Mọc ven đường hoang vu”
(Bóng trăng vạn cổ trang 49)


Hoặc:” Bâng khuâng cỏ gáy xót lòng- Ma hương vương đầy mái tóc”. “Trăm năm yêu khí vù bay- Lầu vắng còn mây đáo tuế “

(Bên giọt rượu khuya chợt nghe đổ quyên nấp hót trang 51).

Bên cạnh những bài sáu chữ, năm chữ, chúng ta tìm thấy bài bảy chữ mượt mà, đầm thấm giai điệu, lời thơ là những khắc khoải pha trộn những mối thắt của cuộc sống chan hoà theo cảnh trạng chung quanh:

“Có phải hồn ta là tháp cổ
Ngàn năm phơi bóng dưới trăng nghiêng?
Bỗng nghe gạch rụng giang hồ qúa
Động lá vàng rơi xuống gió đêm”
(Hóa thạch nằm nghiêng giấc tử sinh trang 62)


Hay tâm thức tác gỉa mê vùi, đồng thiếp về đâu đó, bởi họ Ngô xác nhận:” Cứ đứng quay cuồng giữa bổn thân” để rồi:” Thiên địa ngủ vùi trong nguyệt tận” (HTNNGTS trang 65)

Dường như dư vị là của một bài thơ tưởng niệm, một bài thơ có dáng vấp của “Thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du chăng?.

“Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng
……………
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh..”
(Sơntrungblog)


Toàn bài, tác gỉa đưa chúng ta du hành vào những:” Trăng mọc đến trăng tàn…đường bay không qủi đạo, cháy lang thang đóm lửa chiêu hồn,, tiền thân rụng xuống không và đọan cuối là biểu hiện rõ nét của nội dung bài thơ:

“Có phải từ quy xõa tóc không?
Con chim mỏ đỏ của muôn trùng
Ở đâu dấu mặt không gian đến
Gọi báo thân chồng giữa pháp thân…”
(HTNNGTS trang 67).


Chúng tôi nhận được tập thơ đã lâu, nhưng bị cuốn hút vào vòng quay của cuộc sống phải đành gác lại. Hôm nay, có được những giây phút thư thả, đọc lại với sự cẩn trọng vì thơ anh đầy chất siêu hình, do đó từ lâu chúng tôi vẫn ngại trình bày nhận xét của mình.

Bắt chước cụ Tiên Điền “Lời quê góp nhặt dông dài”, mong bài này gởi đến họ Ngô như một trang kỷ niệm không bao giờ nhạt phai.

“Trăm năm ngàn năm” do VNAG xuất bản năm 2008, tranh Lê Triều Điển, ảnh Thái văn Sơn.

Lâm Hảo Dũng
Vancouver, BC- June 26-2013 (Một ngày hồn rất bao la...)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.