Hôm nay,  

Trung Quốc Mạnh Hay Yếu?

11/06/201500:00:00(Xem: 6242)

...Vì chưa thể cải cách được, lãnh đạo Bắc Kinh phô diễn sức mạnh quân sự với bên ngoài...

Khi theo dõi tình hình Trung Quốc, người ta thấy một nghịch lý. Từ vài năm nay, giới kinh tế bắt đầu nói đến nỗi khó khăn của lãnh đạo kinh tế Trung Quốc sau giai đoạn tăng trưởng huy hoàng là bình quân 9% một năm trong 34 năm liên tục và nay đến lúc phải cải cách để khỏi rơi vào cái bẫy xập của một nước có lợi tức trung bình. Nhưng ngược lại, nhiều nhà nghiên cứu về chiến lược thì nêu vấn đề về sức bành trướng cả thương mại lẫn quân sự của Bắc Kinh khiến các lân bang đều lo ngại. Như vậy thì Trung Quốc mạnh hay yếu? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện này qua phần trao đổi của Hải Ninh với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa....

Hải Ninh: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, dường như “Con Đường Tơ Lụa Mới” và “Bạch Thư Quốc Phòng” của Bắc Kinh là hai mặt trái ngược của Trung Quốc. Một đằng là hứa hẹn hợp tác toàn cầu, từ Á Châu sang Trung Đông, Âu Châu, Phi Châu qua các dự án xây dựng hạ tầng được các ngân hàng của Bắc Kinh tài trợ. Đằng kia là hành vi bành trướng trên nhiều khu vực có tranh chấp về chủ quyền, lại được bảo vệ bằng sức mạnh quân sự chưa từng có của Trung Quốc. Thuần về kinh tế cũng vậy, giới chuyên gia nói đến khó khăn của lãnh đạo Bắc Kinh sau một giai đoạn tăng trưởng ngoạn mục và nay chất lên một núi nợ có thể sụp đổ, vậy mà từ vài năm nay một số học giả về chiến lược lại nói về mối nguy xuất phát từ Trung Quốc cho an ninh của nhiều nước lân bang tại Đông Á. Nếu như vậy, thưa ông, Trung Quốc mạnh hay yếu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng để có giải đáp cho câu hỏi ấy ta cần nhớ đến quy luật là mọi mô thức kinh tế đều chỉ có hy vọng dự báo chính xác nếu có sự đóng góp của bộ môn “kinh tế sử”. Thiếu tầm nhìn về lịch sử thì các phương trình kinh tế đều chỉ có giá trị hạn chế.

- Về Trung Quốc thì sau gần 200 năm loạn lạc vì ngoại xâm lẫn nội chiến, một xã hội hơn một tỷ dân đã có ba chục năm yên lành để làm ăn kể từ 1979, thì kinh tế Trung Quốc tất nhiên có một đà tăng trưởng cao chưa từng thấy. Nhiều quốc gia khác cũng từng có cơ hội tương tự mà với dân số thấp hơn nên ít được thiên hạ chú ý. Trong ba thập niên đó, vụ thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn cách nay 26 năm vào ngày bốn Tháng Sáu năm 1989, khởi đi từ phong trào quần chúng phản đối nạn lạm phát và tham nhũng đã bị thế giới lãng quên nhưng vẫn hằn in trong tư duy của lãnh đạo xứ này. Họ rất sợ nguy cơ động loạn và dù biết là sau mấy chục năm tăng trưởng thiếu phẩm chất, họ phải cải cách để chuyển hướng qua một hình thái tăng trưởng khác nhưng vẫn rất thận trọng. Đấy là một đặc tính người ta nên nhớ khi luận bàn về sự mạnh yếu của Trung Quốc.

Hải Ninh: Ông nêu ra vài ba vấn đề về thời gian lẫn không gian để nhắc đến mô hình kinh tế Trung Quốc trong đó yếu tố chính trị lại giữ vị trí then chốt, tại sao vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh đạo Bắc Kinh không phát minh ra điều gì mới, nhưng họ có trí nhớ. Từ kinh nghiệm Đông Á của các nước như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan và cả Singapore, mô hình Trung Quốc có đặc tính riêng là hệ thống chính trị giữ vị trí điều tiết thị trường. Nhà nước dùng quy luật tư bản để củng cố sức mạnh của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của một đảng độc quyền.

- Thuần về kinh tế và nhờ định hướng chính trị ấy, tăng trưởng của Trung Quốc xuất phát từ hai lực đẩy là tăng đầu tư và giảm tiêu thụ. Nhà nước giữ vai trò thắt lưng buộc bụng, nhưng thắt ai và buộc ai là quyết định của lãnh đạo. Khi đầu tư nhiều để nâng sản lượng cho một thị trường nội địa không được tiêu thụ như ý thì nhà nước đẩy mạnh xuất cảng và độc quyền thu về ngoại tệ nên có khối dự trữ mấp mé bốn ngàn tỷ đô la để có thể bành trướng ảnh hưởng với thiên hạ.

- Thế giới cứ ngợi ca “phép lạ kinh tế” Trung Quốc mà ít thấy khái niệm "tăng đầu tư" và "giảm tiêu thụ" có nghĩa là nhà nước trưng thu tiết kiệm rất nhiều và rẻ của dân để đưa vào sản xuất. Nếu Tần Thủy Hoàng Đế mà có truyền thông quốc tế ở chung quanh thì Vạn Lý Trường Thành ở miền Bắc hay kinh đào Linh Cư tại miền Nam cũng được coi là sự kỳ diệu vì giải quyết được nạn thất nghiệp cho một dân số qúa đông! Người ta thấy ra cái "được" mà khó đếm được cái "mất" - như ô nhiễm môi sinh, tham nhũng hay bất công xã hội, là các vấn đề đang ám ảnh lãnh đạo xứ này.

Hải Ninh: Thưa ông, khi nhắc đến yếu tố lịch sử gần xa thì ta có thể nhớ tới biến cố 2008-2009 rất gần đây là khi kinh tế thế giới bị suy trầm, xuất cảng của Trung Quốc sút giảm thì Bắc Kinh bơm tiền kích thích để vẫn duy trì đà sản xuất cũ. Việc bơm tiền qua ngả tín dụng, chủ yếu là qua hệ thống ngân hàng của nhà nước, đã đẩy kinh tế vượt qua Nhật Bản năm 2010, do đó người ta mới có ấn tượng rằng Trung Quốc rất mạnh về kinh tế, nhưng phải chăng mặt trái cùa sức mạnh ấy là một núi nợ được ước lượng vào khoảng 282% của Tổng sản lượng xứ này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta đều có thể hiểu thiên hạ vay tiền để đầu tư, khi thấy đầu tư có lời cao thì vay thêm để đầu cơ, là kiếm lời lớn hơn trong ngắn hạn nhưng với rủi ro cao hơn. Khi dàn máy bơm tiền lại thuộc về nhà nước, do tay chân nhà nước điều tiết theo diện chính sách mà bất chấp quy luật thị trường thì đằng sau nạn đầu cơ chỉ là "lạm dụng tín dụng". Tức là tay chân nhà nước và thân tộc mở canh bạc theo kiểu tháp ảo làm kinh tế bốc như trái bóng bay, hay bọt xà bông. Ngày nay, nạn đầu cơ địa ốc thổi giá đất đai của nhiều tỉnh thành Trung Quốc chả khác gì Nhật Bản trước khi Nhật bị bể bóng năm 1990 và trôi vào hai chục năm suy trầm. Ở bên dưới trái bóng Trung Quốc là bộ máy sản xuất dư dôi ế ẩm, chưa sử dụng hết 60% công xuất, nằm bên núi nợ xấu sẽ sụp khi bóng bể. Lãnh đạo Bắc Kinh có hiểu ra mối nguy ấy nên muốn tránh và tìm cách dồn sức đầu tư ra ngoài. Các dự án họ trù tính thực hiện ở nơi khác nằm trong chiều hướng phân mỏng rủi ro mà gia tăng thế lực trong khi vẫn muốn nắm dao đằng chuôi.

Hải Ninh: Có lẽ hiểu ra mối nguy ấy nên thế hệ thứ năm lên lãnh đạo sau Đại hội 18 vào cuối năm 2012 quyết định chuyển hướng. Một năm sau, Tháng 11 năm 2013, Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ ba của khóa 18 đề ra phương hướng cải cách và chấp nhận một đà tăng trưởng thấp hơn. Thay vì 9-10% thì quãng 7,5% cũng là được. Có thể là Bắc Kinh biết rằng phải giảm tốc độ cho cỗ xe khỏi lật khi vào khúc quanh. Nhưng vì sao mà ngày nay họ vẫn đề ra chỉ tiêu tăng trưởng là hơn 7% một năm trong khi giới quan sát kinh tế hay các định chế tài chính quốc tế đều cho rằng Trung Quốc khó đạt mức tăng trưởng như vậy và nếu không khéo thì kinh tế sẽ hạ cánh nặng nề chứ không nhẹ nhàng như lãnh đạo Bắc Kinh mong muốn?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Bắc Kinh tính cải cách với ý thức cao về chính trị và có chuẩn bị về tổ chức. Nhưng sau 30 năm thì phép lạ kinh tế cũng sinh ra nhiều bệnh lạ. Hệ thống tài chánh ngân hàng Trung Quốc có nhiều lệch lạc tích lũy từ lâu, kết tụ thành mạng lưới chằng chịt ở mọi cấp hành chính, từ trung ương tới từng địa phương, với thế lực rất lớn của các đảng viên. Những mắc mứu về quyền lợi, trong đó nạn nhũng lạm, tức là tham nhũng và lạm dụng, không chỉ cản trở mà còn phá hoại chỉ thị của trung ương. Việc bơm tiền hay phân phối tài nguyên qua nhiều ngả mờ ám như ngân hàng chui vẫn tiếp tục chất lên một núi nợ mà chúng ta trình bày trong một kỳ trước. Vì vậy, lãnh đạo xứ này phải tập trung lại quyền lực về trung ương qua chiến dịch diệt trừ tham nhũng và vận động hậu thuẫn của quần chúng lẫn quân đội bằng những động thái mang tính chất bành trướng đối với các nước lân bang.

Hải Ninh: Theo cách đánh giá của ông thì phải chăng việc Bắc Kinh xây đảo nhân tạo tại vùng biển Đông Nam Á và công bố Sách Trắng về Quốc Phòng cũng còn có chủ đích trấn an hay tranh thủ dư luận ở ngay bên trong Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi lãnh đạo Bắc Kinh nói đến yêu cầu chuyển hướng quân sự theo tinh thần gọi là “chủ động phòng thủ” thì khái niệm phòng thủ đó bao trùm lên chính trường nội địa! Khi các quốc gia khác báo động về mối nguy của Trung Quốc thì Bắc Kinh càng yên tâm rằng thần dân bên trong thêm hãnh diện về thế lực của quốc gia trên trường quốc tế mà bớt phàn nàn về chuyện kinh tế. Ngày nay, lãnh đạo Bắc Kinh lấy nhiều rủi ro về đối ngoại và gây vấn đề cho lân bang khiến các đề nghị hợp tác và xây dựng của họ trong kế hoạch Con Đường Tơ Lụa, họ gọi là “Nhất Đai Nhất Lộ” lại mất dần sự hấp dẫn về kinh tế khi cân nhắc với rủi ro về an ninh. Đấy cũng là khía cạnh khác về chuyện mạnh yếu của Trung Quốc khi ta đối chiếu với nỗ lực đầu tư và viện trợ tương tự của Nhật Bản tại Đông Á. Nhiều nước Đông Nam Á không sợ Nhật Bản mà e ngại Trung Quốc và đấy không là một thế mạnh của Bắc Kinh.

Hải Ninh: Nếu tổng kết lại, thưa ông có phải Trung Quốc đang gặp nhiều vấn đề kinh tế ở bên trong mà lãnh đạo muốn khỏa lấp bằng kế hoạch quy mô với bên ngoài và vì vậy lại gây cảm giác bất an cho các nước?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng về kinh tế, lãnh đạo Bắc Kinh cần đạp thắng để đổi hướng, rồi sợ tăng trưởng giảm làm thất nghiệp tăng và bị động loạn nên lại ngầm bơm tiền kích thích qua nhiều kênh mà họ biết là thiếu an toàn. Năm ngoái, họ thử nghiệm biện pháp bơm tiền tinh tế hơn, không qua ngả tín dụng ngân hàng đầy rủi ro mà qua việc ngân hàng trung ương mua lại trái phiếu của một số khu vực nhất định, như công khố phiếu ở các địa phương miền Tây, miền Trung, hay trái phiếu hỏa xa, gia cư hay ngân hàng. Năm nay thì họ vừa cho phép đảo nợ tại một số tỉnh, tức là cũng thi hành biện pháp bất thường các nước Tây phương đã áp dụng, là "quantitative easing", là tăng mức lưu hoạt có định lượng. Đâm ra Trung Quốc chưa thể hãm đà tăng trưởng để tìm ra thế quân bình bền vững hơn, với tiêu thụ nội địa mới là lực đẩy.

- Vì chưa thể cải cách được, lãnh đạo Bắc Kinh phô diễn sức mạnh quân sự với bên ngoài và nghĩ là vì các nước e ngại rủi ro đụng độ nên sẽ nhượng bộ yêu sách của họ. Chúng ta có thể gọi đó là “Hội chứng Vương An Thạch” là khi Tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch tiến hành việc cải cách mà thời đó gọi là “biến pháp”. Vì sự cưỡng chống của phe bảo thủ bên trong, họ Vương đi tìm thắng lợi quân sự ở bên ngoài qua quyết định tấn công Việt Nam vào năm 1075. Nào ngờ quân Tống đại bại dưới tay Thái úy Lý Thường Kiệt, Vương An Thạch mất chức và chuyện biến pháp cũng thành nước lã ra sông. Việt Nam ngày nay không được như đời Lý ngày xưa nhưng thế giới ngày nay không chỉ có Trung Quốc với Việt Nam - và rủi ro cho Trung Quốc là chuyện có thật vì họ chưa hùng mà đã đòi hung.

Hải Ninh: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài phỏng vấn lý thú này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.