Hôm nay,  

Kinh Tế Sử Của Trung Quốc

08/04/201600:00:00(Xem: 7698)

Lẽ cường nhược của các Đấng Con Trời

Trước hai mối nguy xuất phát từ Trung Quốc ngày nay – là nền kinh tế trôi vào chu kỳ suy trầm bên trong với hậu quả lan rộng ra ngoài, và bộ máy quân sự ngang ngược đang uy hiếp các lân bang – người khó dự đoán được chuyện cát hung của tương lai. Nhưng nếu nhìn lại lịch sử, thật xa, có lẽ ta thấy ra chuyện sau cũng là chuyện xưa. Vì vậy mới có bài khá dài sau đây, thuộc loại kinh tế sử, khi lịch sử và kinh tế nhồi làm một…

Xin bắt đầu từ Thế kỷ 16, từ đời Minh, thì mới thấy ra một chân trời mở rộng đến Thế kỷ 21 là chuyện của kỳ sau….

Thị Trường và Chính Trường đời Minh

Vì lý do kinh tế lẫn quân sự, mà hai vấn đề nhồi làm một, nhà Minh lại ra lệnh “hải cấm” và dứt thời thám hiểm sau bảy chuyến hải hành của Tam bảo Thái giám, là Đô đốc Trịnh Hòa gốc Hồi Giáo. Bảy chuyến hải hành đó (1405-1433) mở ra cơ hội cho Trung Quốc thành đại cường hải dương, trước khi các nước Âu Châu có những nhà thám hiểm giong buồm theo Cristopher Columbus chinh phục thế giới kể từ 1492 trở đi.

Lý do kinh tế là vì công khố cạn kiệt, nói theo đời nay là vì bội chi ngân sách, chi nhiều hơn thu. Lý do quân sự là vì triều Minh bị quân Mông Cổ đe dọa từ phương Bắc. Tại phương Nam, hai lý do ấy nhồi làm một là vì sự hao tốn của 10 năm xâm lăng Đại Việt lại gặp 10 năm kháng chiến của Lê Lợi. Vị chi là 20 năm xuất huyết (1407-1427). Chuyện này thì xin đọc sử Ta!

Lý do thứ ba ít ai nói ra là mỗi khi tình hình khó khăn, triều đình lại quỳ dưới chân Khổng Tử.

Nho thần đời Minh dẫn lời Thánh hiền mà xin Thiên tử ra lệnh cấm phát triển ngoại thương. “Cha mẹ còn sống mà cứ đi xa là bất hiếu!” Vả lại, “quân tử viết danh, tiểu nhân viết lợi”, buôn bán kiếm lời là trái đạo Thánh hiền. Vì vậy mới bị hải tặc gọi là “Nụy khấu”, giặc lùn, của Nhật đánh phá cướp bóc suốt vùng duyên hải Đông Nam.

Cơ hội cho Từ Hải thành danh trên vùng Việt Đông của Trung Quốc và trong văn học của Việt Nam!

Thật ra lệnh “hải cấm”, cấm giao thương và đóng tầu ba cột buồm để ra biển khơi, không được chấp hành trong thực tế, có khi bị bãi bỏ rồi tái tục, trước sau ba lần dưới các đời Minh Thanh. Và việc buôn bán với nước ngoài vẫn tiếp tục, khi nhiều khi ít và mạnh nhất là vào cuối thế kỷ 16, khi Trung Quốc bán tơ lụa và đồ sứ cho Âu Châu đem về các thỏi bạc làm giàu cho kinh tế.

Trong nguồn xuất cảng bạc ấy, Anh quốc có một thuộc địa giàu có là đất Hoa Kỳ ngày nay!

Nói gọn lại, các sử gia Trung Quốc đời nay hiểu rằng có lúc thỏi bạc đã làm nên sức mạnh cho công khố đời Minh từ năm 1581, với chế độ cải cách thuế khóa và “bạc bản vị”, dùng bạc làm nền tảng định giá đồng tiền thống nhất dưới vòm trời của Thiên tử.

Cho nên “kinh tế thị trường” như ta gọi đời nay, nhưng trên phạm vi quốc tế, đã xuất hiện khá sớm tại Trung Quốc, từ hơn 400 năm trước.

Rồi gặp trở ngại khi lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi thống nhất Nhật Bản năm 1592 (100 năm sau Columbus), tấn công Cao Ly trên bán đảo Triều Tiên khiến nhà Minh phải tham chiến. Sau đó, khi triều đại của Mạc phủ Tokugawa (1603-1867) ngả theo khuynh hướng tự cô lập nên cũng ra lệnh “hải cấm”, là cấm ngoại thương kể từ năm 1653, Trung Quốc mất nguồn nhập bạc từ Nhật thì chỉ còn nơi cung cấp là Âu Châu.

Các nước Âu Châu mở thương điếm tại Đông Nam Á (Macao, Manil, và Battavia tức là Jakarta đời nay) để bán vàng Mỹ mua hàng Tầu về nước. Hình như là các biến cố ấy có vẻ hiện đại, cũng Tầu, Nhật, Âu, Mỹ xoay vần chuyện mua bán, với thương điếm và trạm hải quân!

Nhưng nhà Minh sụp đổ vì cuộc khởi nghĩa của dân chúng và vài năm sau thì tộc Mãn Thanh đại thắng, mở ra triều Đại Thanh (1644-1911).

Chiến Tranh Tiêu Thổ Đời Thanh

Từ Mãn Châu đi xuống thì dù chiếm được Bắc Kinh vào năm 1644, nhà Thanh chưa kiểm soát được cả lãnh thổ và phải bình định miền Nam và đảo Đài Loan, nơi mà các lực lượng trung thành với nhà Minh vẫn hoạt động nhờ Trịnh Thành Công mà họ gọi là Quốc tính gia.

Nhằm tiêu diệt phong trào “phản Thanh phục Minh”, triều Thanh áp dụng chánh sách “tiêu thổ” trên toàn vùng Đông Nam, xua dân và cấm bán để tuyệt đường kinh tài của các tổ chức kháng Thanh. Chánh sách đó làm kinh tế Trung Quốc sa sút – hết bạc Mỹ - và chỉ chấm dứt năm 1683 sau khi tàn dư của nhà Minh đã tiêu vong.

Khi giải trí với truyện võ hiệp Kim Dung, ta ít chú ý đến phí tổn kinh tế cho nhà Thanh qua 40 năm “bình định”! Kinh tế thị trường bị phong tỏa và hải chiến có xảy ra trên eo biển Đài Loan, với kích thước thu hẹp và trình độ kỹ thuật còn thấp kém.

Sau đó là gần trăm năm làm ăn buôn bán, với hải cảng Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông được nhà Đại Thanh quyết định từ năm 1757 là trung tâm ngoại thương duy nhất của Trung Quốc. Cho nên nếu cần tìm hiểu kinh tế chính trị học Trung Quốc trong giai đoạn 1683-1757 thì ta phải lật ra cuốn sử.

Khốn nỗi, lịch sử Trung Quốc cũng là lịch sử nội loạn!

Từ vùng Tây Nam, phong trào Bạch Liên giáo tái sinh (vì thành hình từ thời Nguyên-Minh) và phát triển mạnh trong các năm 1796-1804 khiến Thanh triều vất vả, binh đội xớn xác và tài nguyên cạn kiệt vì nhu cầu bình định. Lại chiến tranh tiêu thổ.


Kinh tế Đại Thanh trôi vào suy thoái và… mắc nghiện.

Đại Thanh Suy Tàn - Âu Châu Xuất Hiện

Môn kinh tế sử chỉ ra một hiện tượng là trong mối giao thương Âu-Hoa, giữa các nước Âu Châu với Trung Quốc thì Thanh triều được xuất siêu là xuất nhiều hơn nhập nhờ bán trà, tơ lụa và đồ sứ cho Âu Châu mà chẳng nhập cảng gì nhiều vì kinh tế tương đối tự túc với tài nguyên nội địa. Nhờ vậy mà Trung Quốc có thêm bạc.

Đứng đầu Âu Châu, Đế quốc Anh bèn phát huy sáng kiến ngoại thương lạ là bán cho Tầu thuốc phiện trồng tại Ấn Độ và vài nước Đông Nam Á.

Nhìn trên bản kế toán quốc gia, Thanh Triều dưới thời Hoàng đế Đạo Quang thấy lỗ vì mất bạc ròng và đem về độc dược. Nhằm khỏi bị lỗ nhà Thanh ra lệnh cấm mua bán thuốc phiện và đụng vào quyền lợi của Anh. Khâm sai Đại thần Lâm Tắc Từ nổi tiếng trong việc thi hành quyết định ấy với việc đốt kho thuốc phiện của mũi nhọn ngoại thương Công ty Đông Ấn của Đế quốc Anh.

Vì chuyện kho thuốc phiện bị đốt và nhân danh quyền tự do mậu dịch – khái niệm tuyệt vời - Anh quốc mở ra cuộc Chiến tranh Nha phiến trong các năm 1839-1842. Xung đột chỉ chấm dứt với Hiệp ước Nam Kinh 1842: nhà Thanh phải mở Thượng Hải và nhiều nơi khác thành vùng tô giới và nhường cảng Hong Kong cho Đế quốc Anh thành lập một thuộc địa.

Nhưng chuyện nào có vậy! Đã bị ngoại thương – định nghĩa khác là bị thương tật bên ngoài – nhà Đại Thanh lại còn bị nội thương.

Lần này cũng như Bạch Liên giáo nửa thế kẻ trước, phong trào phản kháng lại nhuốm mùi tôn giáo. Nhưng khác xưa là theo tư tưởng Phật giáo, lần này phong trào Thái Bình Thiên Quốc lại có màu sắc Công giáo vì lãnh đạo phong trào là “Thiên vương” Hồng Tú Toàn tự xưng là tiểu đệ của Chúa Ky Tô. Thiên vương huy động bá tánh đánh Thiên tử.

Phong trào lan rộng tại các tỉnh miền Trung và miền Nam Trung Quốc, tàn phá các trung tâm thương mại trù phú như Tô Châu và Hàng Châu làm Đại Thanh lại mất sức, phải huy động ngoại viện để dẹp nội loạn suốt 15 năm, từ 1850 đến 1864. Phản ứng khi ấy là phải tìm lực tự chủ và cải cách kinh tế, chấn chỉnh tài chánh để canh tân xứ sở bằng kỹ thuật mới.

Kết quả là Trung Quốc có 35 năm chớm bước vào thời kỹ nghệ, với một số công trình quân sự phôi thai, trong các năm 1861-1895. Nhưng nội ngoại thương gì cũng đều tan tành vì Nhật Bản đã canh tân trước và mở ra cuộc chiến Hoa-Nhật (1894-1895).

Hải đội Mãn Thanh tan tành manh giáp.

Tam Phân Quốc-Cộng-Nhật

Nhưng chao ôi là hiện đại, đảo Đài Loan do Trịnh Thành Công chiếm lấy năm 1662 và thời Khang Hy mới thu hồi năm 1683 nhờ công lao của Đô đốc Thi Lang lại lọt vào tay Nhật Bản. Tức là sau khi mất Hong Kong vào tay Đế quốc Anh năm 1842, Trung Quốc mất Đài Loan vào tay Đế quốc Nhật năm 1895.

Đâm ra hai khu vực kinh tế tài chánh trù phú ấy có lịch sử liên quan đến kinh tế từ Thế kỷ 19!

Sau đấy là sự tiêu vong của nhà Đại Thanh vào năm 1911, nền cộng hòa non yếu ra rời cùng Trung Hoa Dân Quốc dưới sự lãnh đạo của Trung Hoa Quốc Dân Đảng từ năm 1912. Khốn nỗi, nội chiến và khởi nghĩa không chỉ gây tai họa kinh tế làm nước Tầu suy sụp mà còn khiến Chính quyền Dân Quốc không thể tập trung quyền lực. Trung Quốc thực tế tan rã thành nhiều mảnh thuộc về các sứ quân hay lãnh chúa.

Lãnh đạo thời nay tại Bắc Kinh không thể không nhớ đến các bài học hợp tan như vậy.

Mười năm sau thì sự bạc nhược ngoại giao của Dân Quốc khi Thế chiến I kết thúc vì chủ quyền của tỉnh Sơn Đông từ tay Nhật lại được trao cho Đức mới gây phản ứng giận dữ của trí thức qua cuộc “Vận động Ngũ Tứ” (ngày bốn Tháng Năm 1919). Hậu quả bất lường của trí thức trong hành động quần chúng là Đảng Cộng sản Trung Hoa ra đời năm 1921, do Liên bang Xô viết chỉ đạo dưới nhãn Quốc tế Cộng sản (Đệ tam Quốc tế, được Moscow thành lập vào Tháng Ba 1919).

Khi ấy, Liên Xô đã yểm trợ cả Cộng Sản Đảng lẫn Quốc Dân Đảng để tiễu trừ các lãnh chúa hầu gồm thâu thiên hạ về một mối, dưới lá.

Nhưng thế liên hiệp Quốc-Cộng ấy chỉ được có sáu năm, nội chiến Quốc-Cộng bùng nổ năm 1927, kéo dài chục năm (1927-1937) rồi chấm dứt năm 1937. Từ bán đảo Triều Tiên được chiếm đóng từ năm 1910, Nhật Bản tràn vào lãnh thổ Trung Hoa. Chiến tranh Hoa-Nhật tái phát với Quốc Dân Đảng bị tổn thất nặng vì nỗ lực chống Nhật, rồi bị Cộng Sàn Đảng tấn công sau khi Nhật đầu hàng năm 1945. Sau bốn năm kinh hoàng về kinh tế và quân sự, nội chiến Quốc-Cộng chấm dứt khi Mao Trạch Đông chiếm được Hoa lục và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc ra đời năm 1949.

Còn lãnh đạo Quốc Dân Đảng là Tưởng Giới Thạch thì dạt qua Đài Loan để giữ lại danh hiệu Trung Hoa Dân Quốc, vẫn cố phát triển kinh tế thị trường trên một địa bàn thu hẹp…. Họ tìm sức mạnh ở cái đầu, là trí tuệ, và nửa thế kỷ sau thì có thêm sức mạnh khác là thể chế dân chủ.

---

Vì số trang số chữ có hạn, kỳ sau ta tiếp tục tìm hiểu về kinh tế chính trị học Trung Quốc qua lịch sử cận đại và nói đến hiện tượng hóa dại của Mao Trạch Đông khi muốn công nghiệp hóa…

Ý kiến bạn đọc
08/04/201612:30:15
Khách
Tác giả trình bầy như vậy thì độc giả cũng chịu thôi vì không biết tài liệu ở đâu ra mà đối chiếu với những điều đề cập trong bài viết. Dù sao đi nữa cũng phải phục tác giả có một trí nhớ phi thường.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.